Tổ chức quản lý, sử dụng lao động và tiền lương trong công ty Dệt- May Hà Nộix - Pdf 13

LỜI MỞ ĐẦU.
Trong nền sản xuất xã hội của bất kỳ một quốc gia nào, tiền lương luôn
luôn là một vấn đề “ thời sự nóng bỏng”. Nó hàm chứa trong đó nhiều mối quan
hệ giữa sản xuất và phân phối trao đổi, giữa tích luỹ và tiêudùng, giữa thu nhập
và nâng cao mức sống của các thành phần dân cư.
Khi nền kinh tế nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh
nghiệp phải tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự hạch toán chi phí mà trong đó
chi phí tiền lương chiếm phần không nhỏ, thì tiền lương càng trở thành vấn đề
quan trọng trong các doanh nghiệp đó.
Đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, để tồn tại và phát
triển thì họ phải tìm mọi cách nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Muốn vậy
thì công tác lý lao động và tiền lương phải được chú ý đúng mức. Những việc
làm khác sẽ không phát huy được tác dụng, thậm chí không có hiệu quả nếu
công tác này không được quan tâm đúng mức và không thường xuyên được
củng cố.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tổ chức quản lý lao động và tiền
lương là nội dung quan trọng trong công tác quản trị kinh doanh của doanh
nghiệp, nó là một trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định số lượng, chất
lượng sản phẩm hàng hoá. Tổ chức công tác, sử dụng tiền lương giúp cho việc
quản lý lao động của doanh nghiệp đi vào nền nếp, thúc đẩy người lao động
hăng say làm việc, chấp hành tốt kỷ luật lao động nhằm tăng năng suất và hiệu
quả công việc, đồng thời cũng tạo cơ sở tính lương đúng với nguyên tắc phân
phối theo lao động. Nếu tổ chức tốt công tác lao động - tiền lương, quản lý tốt
qũy lương và đảm bảo trả lương, trợ cấp, bảo hiểm xã hội theo đúng chế độ
chính sách thì sẽ tạo cơ sở cho việc phân bổ chi phí nhân công vào giá thành
được chính xác, đặc biệt đối với doanh nghiệp có quy mô và số lượng cán bộ
công nhân viên lớn. Công ty Dệt-May Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước
thuộc Bộ Công nghiệp. Hoạt động chính của Công ty là sản xuất những mặt
hàng phục vụ cho người tiêu dùng trong nước và nước ngoài. Do đó yêu cầu đặt
ra với Công ty là phải có một đội ngũ công nhân viên đông đảo, trình độ chuyên

1.1 Quản lý lao động là gì ?
Quản lý lao động là hoạt động quản lý lao động con người trong một tổ
chức nhất định trong đó chủ thể quản trị tác động lên khách thể bị quản trị nhằm
mục đích tạo ra lợi ích chung của tổ chức. Trong nền kinh tế thị trường các
doanh nghiệp được đặt trong sự cạnh tranh quyết liệt. Vì vậy để tồn tại và phát
triển doanh nghiệp phải thường xuyên tìm cách nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Trong đó các công việc phải quan tâm hàng đầu là quản trị lao động.
Những việc làm khác sẽ trở nên vô nghĩa nếu công tác quản lý lao động không
được chú ý đúng mức không được thường xuyên củng cố. Thậm chí không có
hiệu quả, không thể thực hiện bất kỳ chiến lược nào nếu từng hoạt động không
đi đôi với việc hoàn thiện và cải tiến công tác quản lý lao động. Một doanh
nghiệp dù có điều kiện thuận lợi trong kinh doanh, có đầy đủ điều kiện vật chất
kĩ thuật để kinh doanh có lãi, một đội ngũ công nhân viên đủ mạnh nhưng khoa
học quản lý không được áp dụng một cách có hiệu quả thì doanh nghiệp đó cũng
không tồn tại và phát triển được. Ngược lại một doanh nghiệp đang có nguy cơ
sa sút, yếu kém để khôi phục hoạt động của nó, cán bộ lãnh đạo phải sắp xếp, bố
trí lại đội ngũ lao động của doanh nghiệp, sa thải những nhân viên yếu kém, thay
đổi chỗ và tuyển nhân viên mới nhằm đáp ứng tình hình hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp phù hợp với khả năng làm việc của từng người.
Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự chuyển đổi từ nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã làm cho các
mối quan hệ giữa con người càng trở nên phức tạp. Nhiệm vụ của quản lý lao
động là điều hành chính xác trọn vẹn các mối quan hệ ấy để cho sản xuất được
tiến hành nhịp nhàng, liên tục và đem lại hiệu quả cao. Vì vậy vai trò của quản
lý lao động đối với doanh nghiệp là rất quan trọng. Bởi lẽ quản lý lao động là bộ
5
5
phận không thể thiếu được của quản trị sản xuất kinh doanh, nó nhằm củng cố
và duy trì đầy đủ số lượng và chất lượng người làm việc cần thiết cho tổ chức để
đạt được mục tiêu đề ra, tìm kiếm và phát triển những hình thức, những phương

7
kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Với một nền kinh tế đang trên đà phát triển
mạnh tạo nên sự cạnh tranh đầu vào về lao động giữa các doanh nghiệp ngày
càng cao. Người lao động do đó cần phải trang bị cho mình những kiến thức và
rèn luyện kỹ năng đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp. Ngược lại doanh nghiệp
cần phải có chính sách thích hợp đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của người lao
động, tạo nên một môi trường làm việc có hiệu quả để doanh nghiệp đạt được
mục đích lợi nhuận tối đa.
Quản lý lao động là quản lý một nhân tố cơ bản nhất, quyết định nhất của
lực lượng sản xuất đó là nhân tố con người. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh
hiện nay, các cơ sở doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được đều rất cần
được trang bị máy móc thiết bị hiện đại, có sự nhảy vọt thay đổi về chất. Tuy
nhiên nếu thiếu nhân tố con người, thiếu một đội ngũ lao động có trình độ, có tổ
chức thì cũng không thể phát huy hết được tác dụng của các nhân tố kia.
Tóm lại, để quản lý lao động tốt thì phải giải quyết những mục tiêu sau:
Thứ nhất là sử dụng lao động một cách hợp lý có kế hoạch phù hợp với
điều kiện tố chức, kỹ thuật, tâm sinh lý người lao động nhằm không ngừng tăng
năng suất lao động trên cơ sở kết hợp chặt chẽ với các yếu tố khác của quá trình
sản xuất nhằm khai thác có hiệu quả nhất mọi nguồn lực của sản xuất kinh
doanh.
Thứ hai là bồi dưỡng sức lao động về trình độ văn hoá, chính trị, tư tưởng,
chuyên môn nghiệp vụ và đặc biệt là nâng cao mức sống vật chất, tinh thần
nhằm đảm bảo tái sản xuất sức lao động, phát triển toàn diện con người.
Quản lý lao động nhằm sử dụng và bồi dưỡng lao động là hai mặt khác
nhau nhưng nó lại liên quan mật thiết với nhau. Nếu tách rời hoặc đối lập giữa
hai công việc này là sai lầm nghiêm trọng, không chỉ nói đến sử dụng lao động
mà quên bồi dưỡng sức lao động và ngược lại.
2. Cơ sở lý luận chung về tiền lương.
Tiền lương được hiểu là số tiền mà người lao động nhận được từ người sử
dụng lao động thanh toán lại tương ứng với số lượng và chất lượng lao động mà

định. Nguồn tiền lương và thu nhập của người lao động bắt nguồn từ kết quả của
hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự quản lý vĩ mô của Nhà nướcvề lĩnh vực này
bắt buộc các doanh nghiệp phải đảm bảo cho người lao động có mức thu nhập
thấp nhất phải bằng mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
11
11
Trong các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, sức lao động là yếu tố
mang tính quyết định. Do đó có thể nói tiền lương là phạm trù của sản xuất, yêu
cầu phải tính đúng, tính đủ trước khi trả hoặc cấp phát cho người lao động.
Cũng chính vì sức lao động là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất cần
phải được bù đắp sau khi đã hao phí, nên tiền lương cũng phải được thông qua
quá trình phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân dựa trên hao phí, hiệu
quả lao động. Và ở đây tiền lương lại thể hiện là một phạm trù phân phối. Sức
lao động là hàng hoá cũng như các loại hàng hoá khác nên tiền lương cũng là
phạm trù trao đổi. Nó đòi hỏi phải ngang giá với giá cả của các tư liệu tiêu dùng,
sinh hoạt cần thiết nhằm tái sản xuất sức lao động. sức lao động cần phải được
tái sản xuất thông qua quỹ tiêu dùng cá nhân và do đó tiền lương lại là phạm trù
thuộc lĩnh vực tiêu dùng...
Như vậy tiền lương là một phạm trù kinh tế gắn liền lao động, tiền tệ và
nền sản xuất hàng hoá. Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức
lao động mà người lao động sử dụng để bù đắp hao phí lao động đã bỏ ra trong
quá trình sản xuất kinh doanh. Mặt khác, về hình thức, trong điều kiện tồn tại
của nền sản xuất hàng hoá và tiền tệ thì tiền lương là một bộ phận cấu thành nên
giá trị sản phẩm do lao động tạo ra. Tuỳ theo cơ chế quản lý mà tiền lương có
thể được xác định là một bộ phận của chi phí sản xuất cấu thành nên giá thành
sản phẩm hay là một bộ phận của thu nhập.
2.2 Chức năng của tiền lương.
Tiền lương là một nhân tố hết sức quan trọng của quá trình quản lý nói
chung và quản lý lao động tiền lương nói riêng. Có thể kể ra một số chức năng
cơ bản của tiền lương như sau:

Nguồn quỹ tiền lương nêu trên được gọi là tổng quỹ tiền lương.
Như vậy cán bộ công nhân viên sẽ được nhận tiền lương phụ cấp từ quỹ
tiền lương của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp việc quản lý quỹ lương đòi
hỏi phải hết sức chặt chẽ, hợp lý, hiệu quả và việc cấp phát lương phải đảm bảo
nguyên tắc phân phối theo lao động... nhằm tăng năng suất lao động và hạ giá
thành sản phẩm. Quản lý và kiểm tra việc thực hiện quỹ lương ở các doanh
nghiệp phải do cơ quan chủ quản của doanh nghiệp tiến hành trên cơ sở đối
chiếu, so sánh thường xuyên quỹ lương thực hiện với quỹ lương kế hoạch của
doanh nghiệp trong mối quan hệ với việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh
15
15
doanh của doanh nghiệp. Mặt khác thực hiện việc quản lý tiền lương là xác định
mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động với Nhà nước về
phân chia lợi ích sau một thời kỳ, hay khoảng thời gian sản xuất kinh doanh nhất
định cùng với một số chỉ tiêu tài chính khác. Việc xác định giá trị hao phí sức
lao động cho một đơn vị sản phẩm, cho 1000 đ doanh thu hay lợi nhuận là hết
sức quan trọng và cần thiết. Đó là chi phí hợp lệ trong giá thành, là căn cứ để
xác định lợi tức chịu thuế , là công cụ để Nhà nước quản lý tiền lương và thu
nhập trong các doanh nghiệp. Cụ thể, Nhà nước quyết định đơn giá tiền lương
của các sản phẩm trọng yếu, đặc thù, các sản phẩm còn lại thì doanh nghiệp tự
tính giá tiền lương theo hướng dẫn chung (Thông tư số 13/LĐTBXH-TT ban
hành ngày 10/4/1997). Doanh nghiệp sẽ tự quyết định đơn giá tiền lương nhưng
phải đăng ký với cơ quan chủ quản. Việc xác định đơn giá tiền lương có thể dựa
trên các chỉ tiêu sau:
- Tổng sản phẩm (kể cả sản phẩm quy đổi) bằng hiện vật.
- Tổng doanh thu.
- Tổng thu trừ tổng chi.
- Lợi nhuận.
Doanh nghiệp sẽ xác định đơn giá tiền lương tuỳ theo tính chất, đặc điểm
hoạt động sản xuất kinh doanh, cơ cấu tổ chức và chỉ tiêu kinh tế gắn với việc

lý việc tính và trả lương theo thời gian có thể thực hiện theo hai cách:
a. Trả lương theo thời gian giản đơn: ( giờ, ngày, tháng...)
Chế độ trả lương theo thời gian giản đơn là chế độ trả lương mà tiền
lương nhận được của mỗi người công nhân do mức lương cấp bậc cao hay thấp
và thời gian làm việc thực tế ít hay nhiều quyết định.
Tiền lương trả cho người lao động được tính theo công thức:
L = L
CB
x T
H
Trong đó: L: Lương nhận được.
L
CB
: Lương cấp bậc.
T
H
: Thời gian làm việc thực tế.
19
19
Chế độ trả lương này chỉ áp dụng ở những nơi khó định mức lao động,
khó đánh giá công việc một cách chính xác. Có 3 loại tiền lương theo thời gian
đơn giản:
Lương giờ: tính theo mức lương cấp bậc và số giờ làm việc.
Lương ngày: tính theo mức lương cấp bậc và số ngày làm việc thực tế.
Lương tháng: tính theo mức lương cấp bậc tháng.
Hình thức này có ưu điểm là đơn giản, dễ tính toán. Hơn nữa người công
nhân có thể tự tính được tiền công mà mình được lĩnh. Bên cạnh đó, hình thức
trả lương này cũng có những nhược điểm là nó mang tính chất bình quân nên
không khuyến khích việc sử dụng hợp lý thời gian làm việc, tiết kiệm nguyên
vật liệu, không tập trung công suất của máy móc thiết bị để tăng năng suất lao

( Qi x ĐGi)
Trong đó: Lsp: lương theo sản phẩm.
Qi: khối lượng sản phẩm i sản xuất ra.
ĐGi: đơn giá tiền lương một sản phẩm loại i.
i: số loại sản phẩm i.
Tiền lương tính theo sản phẩm căn cứ trực tiếp vào kết quả lao động sản
xuất của mỗi người. Nếu họ làm được nhiều sản phẩm hoặc sản phẩm làm ra có
chất lượng cao thì sẽ được trả lương cao hơn và ngược lại. Chính vì vậy nó có
tác dụng khuyến khích người lao động quan tâm đến kết quả lao động sản xuất
của mình, tích cực cố gắng hơn trong quá trình sản xuất, tận dụng tối đa khả
năng làm việc, nâng cao năng suất và chất lượng lao động. Hơn nữa trả lương
theo sản phẩm còn có tác dụng khuyến khích người lao động học tập nâng cao
trình độ văn hoá kỹ thuật, tích cực sáng tạo và áp dụng khoa học kỹ thuật vào
quá trình sản xuất. Điều này tạo điều kiện cho họ tiến hành lao động sản xuất
với mức độ nhanh hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm với chất lượng cao hơn. Trả
lương theo sản phẩm đòi hỏi phải có sự chuẩn bị nhất định như: định mức lao
động, xây dựng đơn giá tiền lương cho một sản phẩm, thống kê, nghiệm thu sản
phẩm... đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được cân đối hợp lý.
Căn cứ vào đơn giá sản phẩm và đối tượng trả công, hình thức trả lương
theo sản phẩm có 5 loại sau:
Loại 1: Trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân:
Chế độ trả lương này được áp dụng rộng rãi với người trực tiếp sản xuất
trong điều kiện quá trình sản xuất của họ mang tính độc lập tương đối, công việc
có định mức thời gian, có thể thống kê, kiểm tra nghiệm thu sản phẩm một cách
cụ thể và riêng biệt.
Đơn giá tiền lương có tính chất cố định được tính theo công thức:
23
23
ĐG = L x Ds
Trong đó: ĐG: đơn giá sản phẩm


=
n
i 1
25
Trong đó: ĐG: đơn giá tính theo sản phẩm tập thể

=
n
i 1
L: tổng tiền lương theo cấp bâc công việc của cả tổ
Ds: định mức sản lượng cả tổ
Đt: định mức thời gian
Tiền công của cả tổ, nhóm công nhân tính theo công thức:
L
NCN
= ĐG x Q
Trong đó: L
NCN
: tiền lương của nhóm công nhân
ĐG: đơn giá tính theo sản phẩm
Q: khối lượng sản phẩm sản xuất được
Sau khi xác định được tiền lương cả đơn vị thì tiến hành chia lương cho
từng công nhân. Tuỳ theo tính chất công việc mà doanh nghiệp có thể lựa chọn
một trong hai phương pháp chia lương sau:
a. Chia lương theo giờ – hệ số: Tiến hành qua 3 bước:
- Tính tổng số giờ hệ số của đơn vị – là số giờ qui đổi của các công nhân ở
những bậc thợ khác nhau về giờ của công nhân bậc 1. Tổng số giờ hệ số được
tính bằng cách lấy giờ làm việc của công nhân nhân với hệ số cấp bậc của người
đó sau đó tổng hợp cho cả tổ.

ĐG =

=
n
i 1
Ds
L
29
29
Trong đó: ĐG: đơn giá tính theo sản phẩm gián tiếp.
L: lương cấp bậc tháng công nhân phụ, phục vụ và quản lý.
Ds: định mức sản lượng của công nhân chính trong tháng.
Bước 2: tính lương sản phẩm gián tiếp:
L
GT
= ĐG x Q
TH
Trong đó: Q
TH
: sản lượng thực hiện trong tháng.
Ưu điểm cơ bản của hình thức này là làm cho mọi cán bộ công nhân viên
đều quan tâm đến vấn đề nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm,
tạo điều kiện cho doanh nghiệp đạt được hiệu quả cao trong sản xuất kinh
doanh.
Loại 4: Tiền lương theo sản phẩm luỹ tiến.
Chế độ trả lương này áp dụng ở những khâu trọng yếu của sản xuất hoặc
khi sản xuất đang khẩn trương mà xét thấy việc giải quyết những tồn tại ở khâu
này có tác dụng thúc đẩy sản xuất ở những khâu khác có liên quan, góp phần
hoàn thành vượt mức kế hoạch của doanh nghiệp.
Ưu điểm của hình thức tiền lương này là khuyến khích công nhân tăng

biên chế thì quỹ lương chế độ bằng tổng lao động định mức lao động hợp lý (sau
khi đã sắp xếp lại lao động, kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý xác định rõ chức
năng nhiệm vụ và biên chế các phòng ban). Công ty tính toán và khoán quỹ
lương cho từng phòng ban, bộ phận theo nguyên tắc hoàn thành kế hoạch công
tác. Nếu chi phí bộ máy gián tiếp ít thì thu nhập cao, ngược lại không hoàn
thành kế hoạch chi phí nhiều, biên chế lớn thì thu nhập ít.
Chế độ tiền lương khoán khuyến khích công nhân hoàn thành nhiệm vụ
trước thời hạn, đảm bảo chất lượng công việc thông qua hợp đồng giao khoán
chặt chẽ. Tuy nhiên chế độ trả lương này khi tính toán đơn giá phải hết sức chặt
33
33
chẽ, tỉ mỉ để tránh gây thiệt thòi cho người nhận khoán cũng như người giao
khoán.
2.3.3 Các loại tiền thưởng.
Tiền thưởng là một biện pháp kích thích vật chất có tác dụng rất tích cực
đối với việc thúc đẩy người lao động phấn đấu thực hiện công việc ngày càng tốt
hơn. Thưởng có rất nhiều loại, trong thực tế doanh nghiệp có thể áp dụng một số
hay tất cả các loại tiền thưởng sau:
- Thưởng năng suất, thưởng chất lượng: áp dụng khi người lao động thực hiện
tốt hơn mức độ trung bình về số lượng, chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ.
- Thưởng tiết kiệm: áp dụng khi người lao động sử dụng tiết kiệm các loại vật
tư, nguyên vật liệu... có tác dụng giảm giá thành sản phẩm dịch vụ mà vẫn đảm
bảo chất lượng theo yêu cầu.
- Thưởng sáng kiến: áp dụng khi người lao động có sáng kiến cải tiến kỹ thuật,
tìm ra các phương pháp làm việc mới... có tác dụng nâng cao chất lượng sản
phẩm dịch vụ.
- Thưởng lợi nhuận: áp dụng khi doanh nghiệp làm ăn có lãi trong trường hợp
này người lao động sẽ được chia một phần tiền dưới dạng tiền thưởng. Hình
thức này áp dụng cho công nhân viên vào cuối quý, sau nửa năm hoặc cuối năm
tuỳ theo hình thức tổng kết hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

đáng với khả năng, hiệu suất làm việc của họ. Đối với người lao động nếu họ
làm việc với năng suất cao, chất lượng sản phẩm làm ra tốt thì họ sẽ nhận được
mức lương tương ứng và ngược lại.
- Có thể nói tiền lương là một trong những hình thức kích thích lợi ích vật
chất đối với người lao động. Vì vậy để sử dụng đòn bẩy tiền lương nhằm đảm
bảo cho sản xuất phát triển, duy trì một đội ngũ người lao động có trình độ kỹ
thuật cao với ý thức kỷ luật tốt...thì công tác tổ chức tiền lương trong doanh
nghiệp phải đặc biệt được coi trọng. Tổ chức phân phối tiền lương trong doanh
nghiệp được công bằng và hợp lý sẽ tạo ra tâm lý thoải mái giữa người lao động,
hình thành khối đoàn kết thống nhất, một lòng vì sự nghiệp phát triển doanh
nghiệp và lợi ích của bản thân họ. Chính vì vậy mà người lao động tích cực làm
việc bằng cả lòng nhiệt tình, hăng say và họ có quyền tự hào về mức lương họ
đạt được. Ngược lại khi công tác tổ chức tiền lương trong doanh nghiệp thiếu
tính công bằng và hợp lý thì không những nó đẻ ra những mâu thuẫn nội bộ
37
37
thậm chí khá gay gắt giữa những người lao động với nhau, giữa người lao động
với các cấp quản trị, cấp lãnh đạo doanh nghiệp, mà có lúc còn có thể gây nên sự
phá hoại ngầm dẫn đến sự lãng phí to lớn trong sản xuất. Vậy đối với nhà quản
trị, một trong những công việc được quan tâm hàng đầu là phải theo dõi đầy đủ
công tác tổ chức tiền lương, thường xuyên lắng nghe và phát hiện kịp thời
những ý kiến bất đồng hoặc những mâu thuẫn có thể xảy ra trong phân phối tiền
lương và tiền thưởng cho người lao động, để rồi qua đó có sự điều chỉnh thoả
đáng và hợp lý. Người ta đã chứng minh rằng: nếu tiền lương đảm bảo tái sản
xuất được sức lao động theo đúng nghĩa của nó thì năng suất lao động sẽ đạt
được tương đối cao và nếu quản lý lao động tốt thì năng suất sẽ cao hơn nhiều.
Ngược lại nếu tiền lương chỉ đảm bảo được 70% nhu cầu tái sản xuất sức lao
động thì năng suất lao động sẽ giảm đi 50%.
Như vậy để khuyến khích người lao động làm việc thì doanh nghiệp cần
phải có chính sách, chế độ tiền lương xứng đáng, phù hợp. Đó cũng là nghệ

chuyên môn nghiệp vụ đồng thời tăng cường kỷ luật lao động đảm bảo điều kiện
an toàn cho người lao động.
2.2 Các nguyên tắc của việc quản lý, sử dụng tiền lương.
- Phải xây dựng được một quy chế trả lương đầy đủ, rõ ràng và thống nhất. Để
đảm bảo được tính dân chủ, công khai, bản quy chế trả lương phải được sự tham
gia đóng góp của Ban chấp hành công đoàn và phổ biến công khai đến từng
người lao động, đồng thời phải đăng ký với cơ quan giao đơn giá tiền lương của
doanh nghiệp.
- Công tác xây dựng đơn giá tiền lương và xác định quỹ tiền lương phải đảm
bảo chặt chẽ và có độ chính xác cao để không gây thiệt thòi cho gười lao động
cũng như người trả lương. Quỹ tiền lương phải được phân phối trực tiếp cho
người lao động trong doanh nghiệp, không được sử dụng vào mục đích khác.
• Việc trả lương phải đảm bảo những nguyên tắc sau:
- Phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động. Điều này bắt nguồn từ bản chất tiền
lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động. tiền lương là nguồn thu
nhập chủ yếu của người lao động, do đó tiền lương không những phải đảm bảo
tái sản xuất sức lao động mà còn phải đảm bảo nuôi sống gia đình họ. Không
những thế, tiền lương còn phải đủ tích luỹ, tiền lương ngày mai phải cao hơn
hôm nay.
41
41
- Tiền lương trả cho người lao động phải dựa trên cơ sở sự thoả thuận giữa
người sử dụng lao động và người lao động thông qua bản hợp đồng lao động.
Chí ít thì mức lương nhận được của người lao động cũng phải bằng mức lương
tối thiểu do Nhà nước quy định.
- Việc trả lương cho từng bộ phận, cá nhân người lao động theo quy chế chủ
yếu phụ thuộc vào năng suất, chất lượng, hiệu quả công tác, giá trị cống hiến của
từng bộ phận cá nhân người lao động, không phân phối bình quân.Đối với người
lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, giỏi, giữ vai trò quan trọng trong
việc hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của đơn vị thì mức tiền lương và

Lan... Hiện nay, Công ty Dệt May Hà Nội có 9 đơn vị thành viên:
- Tại quận Hai Bà Trưng Hà Nội gồm:
Nhà máy sợi; Nhà máy May 1, 2; Nhà máy dệt nhuộm; Nhà máy cơ điện;
Nhà máy dệt vải DeNim
Tháng 7 năm 2001 có thêm nhà máy may 3. Ngoài ra còn có một số xí
nghiệp sản xuất ống giấy, bao bì, nhựa đóng gói tự hạch toán kinh doanh
- Tại huyện Thanh Trì, Hà Nội có Nhà máy may Đông Mỹ
- Tại thị xã Hà Đông – Hà Tây có Nhà máy dệt Hà Đông.
- Tại thành phố Vinh – Nghệ An: Nhà máy Sợi Vinh
Ngoài ra còn có nhiều cửa hàng thương mại dịch vụ, cửa hàng giới thiệu
sản phẩm.
45
45
• Năng lực sản xuất của Công ty.
- Năng lực kéo sợi: Tổng số có 150.000 cọc sợi với sản lượng 10.000 tấn/ năm.
- Năng lực dệt kim:
Sản phẩm vải các loại là 4.000 tấn / năm.
Sản phẩm may là 8 triệu/năm (trong đó 7 triệu là sản phẩm xuất khẩu )
Sản phẩm khăn bông 1.000 tấn /năm
- Tổng kim ngạch xuất khẩu bình quân là 30 triệu USD/năm.
- Là một doanh nghiệp lớn thuộc Bộ Công nghiệp, trong cơ chế thị
trường để đứng vững và ngày một phát triển trong nước cũng như trên thị trường
quốc tế thì sản phẩm của Công ty phải ngày càng phong phú về chủng loại và
mẫu mã.
Công ty chuyên sản xuất kinh doanh xuất khẩu các loại sản phẩm như:
+ Các loại vải đơn và sợi xe có chất lượng cao như: sợi Cotton, Sợi peco,
Sợi Pe với chỉ số trung bình (NE ) là: 36/I
+ Các loại dệt kim thành phẩm: Rb, Interlob, single, các sản phẩm may
mặc lót, mặc ngoài bằng vải dệt kim.
+ Các loại khăn bông, lều du lịch.

cạnh tranh với những sản phẩm dệt may của các công ty khác trong và ngoài
nước.
Công ty đã tiến hành sản xuất kinh doanh nhiều mặt hàng, đáp ứng được
nhu cầu đa dạng của thị trường và từ đó tạo thuận lợi cho việc mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty, đồng thời tránh được rủi ro trong kinh
doanh. Song, để có thể mở rộng được thị phần của mình trong nước cũng như
trên thế giới thì đòi hỏi Công ty phải có chính sách, chiến lược đúng đắn, phù
hợp với từng loại sản phẩm trong từng giai đoạn phát triển.
III. MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ CƠ CẤU BỘ MÁY CỦA CÔNG TY.
1. Đặc điểm về bộ máy quản lý.
Công ty thực hiện chế độ quản lý một thủ trưởng trên cơ sở quyền làm
chủ của tập thể lao động. Tổng Giám đốc công ty do Chính phủ bổ nhiệm, là
49
49

Trích đoạn MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ CƠ CẤU BỘ MÁY CỦA CÔNG TY 1 Đặc điểm về bộ máy quản lý. Tổ chức và quản lý sử dụng lao động trong Công ty. Tình hình quản lývà bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật trong Công ty.
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status