Nghiên cứu đặc điểm hình thái ống sinh tinh của bệnh nhân không có tinh trùng trong tinh dịch, đánh giá hiệu quả một số phương pháp hỗ trợ sinh sản - Pdf 14

ĐẶT VẤN ĐỀ
Lý do lựa chọn đề tài:
Theo kết quả nghiên cứu đề tài cấp Nhà nước về chất lượng
dân số năm 1998 - 2000 thì tỷ lệ vô sinh chung là 5,0%, trong đó
nguyên nhân do nam giới chiếm 40,0%. Với tỷ lệ vô sinh như
vậy, ở Việt Nam có hàng triệu cặp vợ chồng có nhu cầu điều trị
vô sinh.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến vô sinh nam, trong đó
nguyên nhân không có tinh trùng trong tinh dịch (azoospermia)
chiếm một tỷ lệ đáng kể trong các nguyên nhân vô sinh nam và là
nguyên nhân khó điều trị nhất.
Ngày nay, với những thành tựu to lớn trong lĩnh vực hỗ trợ
sinh sản đã đem lại cơ hội làm cha, làm mẹ cho nhiều người. Đặc
biệt, những bệnh nhân không có tinh trùng trong tinh dịch có thể
có con của chính mình bằng tinh trùng thu được từ tinh hoàn, mào
tinh hay trong ống dẫn tinh. Tuy vậy, đến nay còn rất nhiều vấn đề
cần được nghiên cứu về quá trình sinh tinh, cũng như phân loại và
điều trị vô sinh nam, đặc biệt đối với các bệnh nhân không có tinh
trùng trong tinh dịch.
Việc nghiên cứu cấu trúc ống sinh tinh ở các bệnh nhân không
có tinh trùng trong tinh dịch (azoospermia) có một ý nghĩa quan
trọng trong nghiên cứu quá trình sinh tinh, đánh giá khả năng sinh
tinh, khả năng thu tinh trùng, là cơ sở cho việc phân loại các trường
hợp không có tinh trùng trong tinh dịch và là cơ sở khoa học cho
công tác dự phòng, tiên lượng và điều trị hiếm muộn, vô sinh. Mặc
dù hiện nay, có nhiều phương pháp đã được đưa ra để đánh giá quá
trình sinh tinh, có một số tác giả đề nghị sử dụng nồng độ FSH và
thể tích tinh hoàn để đánh giá chức năng sinh tinh của tinh hoàn.
Nhưng các phương pháp này mang lại giá trị rất thấp trong việc
1
đánh giá khả năng sinh tinh và tiên lượng. Vì vậy, tôi tiến hành

Mỗi tinh hoàn được bọc bởi màng trắng. Từ thể Highmore
phát triển ra những vách liên kết, chia tinh hoàn ra khoảng 100 -
250 thùy. Trong mỗi thùy có 1 đến 3 ống sinh tinh, xen kẽ với các
ống sinh tinh là mô liên kết thưa. Ở đây có những tế bào liên kết,
những sợi liên kết, những mạch máu, dây thần kinh và tế bào
Leydig.
1.1.1. Cấu trúc vi thể và siêu vi thể ống sinh tinh và quá trình
sinh tinh trùng
- Ống sinh tinh gồm: lớp áo xơ bao phủ ống sinh tinh và biểu
mô cấu tạo bởi 2 loại tế bào là tế bào Sertoli và các tế bào dòng
tinh.
- Quá trình sinh tinh trải qua 3 giai đoạn: sinh tinh bào, giảm
phân và tạo tinh trùng.
1.1.2. Mô kẽ tinh hoàn
Giữa các ống sinh tinh là mô liên kết, có mạch máu, thần
kinh và mạch bạch huyết. Đến giai đoạn dậy thì, xuất hiện thêm 1
loại tế bào hình đa diện, bào tương chứa những giọt mỡ nhỏ. Những
tế bào này gọi là tế bào kẽ hay tế bào Leydig, loại tế bào này sản
xuất ra testosterone, một hormone đảm bảo tạo ra các giới tính nam
phụ.
1.1.3. Quá trình trưởng thành của tinh trùng ở mào tinh
Để trưởng thành hoàn toàn về mặt chức năng, tinh trùng phải
trải qua một giai đoạn cuối cùng tại mào tinh khoảng 12 đến 21 ngày.
1.1.4. Điều hoà quá trình sinh tinh qua cơ chế nội tiết
Sự sinh tinh và tổng hợp nội tiết của tinh hoàn chịu sự điều
phối của vùng dưới đồi và tuyến yên. Các hormone của tuyến yên
3
đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà hoạt động của tinh
hoàn gồm LH, FSH và prolactin. Dưới tác dụng của LH, tế bào
Leydig tăng tiết testosterone. Prolactin ít có tác dụng lên tế bào

hoàn bằng kim.
1.2.4. Đặc điểm mô bệnh học tinh hoàn bệnh nhân azoospermia
- Cho đến nay đã có nhiều nghiên cứu về cấu trúc tinh hoàn ở
các bệnh nhân vô sinh nam. Đặc biệt, Brandell R.A. 2000 mô tả
các hình ảnh có thể thấy trong sinh thiết tinh hoàn như sau: Suy
giảm quá trình sinh tinh (Hypospermatogenesis), ngưng trệ quá
trình sinh tinh (Maturation arrest), hội chứng chỉ có tế bào Sertoli
(Sertoli cell only syndrome), xơ hóa (Sclerosis), canxi hóa.
1.2.5. Các phương pháp đánh giá mức độ tổn thương của tinh
hoàn ở bệnh nhân vô sinh nam
Cho đến nay, có rất nhiều phương pháp đánh giá mức độ tổn
thương của tinh hoàn được đưa ra bởi nhiều tác giả khác nhau.
Nhưng nhìn chung, các nghiên cứu về cấu trúc hình thái tinh hoàn
của bệnh nhân azoospermia còn rải rác, chưa cung cấp một bức
tranh tổng thể từ những biến đổi vi thể đến siêu vi thể, từ chẩn
đoán, phân loại, tiên lượng đến điều trị cho các bệnh nhân này.
1.2.6. Điều trị và các phương pháp hỗ trợ sinh sản cho các
bệnh nhân azoospermia
- Điều trị nội khoa.
- Điều trị phẫu thuật.
- Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
- Các kỹ thuật lấy và phân lập tinh trùng ở các bệnh nhân
không có tinh trùng trong tinh dịch.
5
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- 467 bệnh nhân azoospermia:
Đó là những người không có tinh trùng trong tinh dịch được

2.2.2. Các chỉ tiêu nghiên cứu
Bao gồm các chỉ tiêu về đặc điểm chung của đối tượng
nghiên cứu; về hormone; về cấu trúc ống sinh tinh; về siêu cấu trúc
ống sinh tinh; hiệu quả các phương pháp hỗ trợ sinh sản.
2.2.3. Xét nghiệm tinh dịch đồ (WHO, 1999)
2.2.4. Xét nghiệm nội tiết tố
Máu ngoại vi của tất cả các bệnh nhân azoospermia được xét
nghiệm trên máy bằng hệ thống tự động Elecsys 2010 (hãng
Roche).
2.2.5. Các kỹ thuật lấy mẫu
2.2.5.1. Sinh thiết tinh hoàn
Được tiến hành cho tất cả các bệnh nhân azoospermia trong
nghiên cứu, theo phương pháp sinh thiết mở (ASRM, 2006).
2.2.5.2. Lấy tinh trùng từ mào tinh bằng chọc hút qua da
(Percutaneous epididymal sperm aspiration-PESA) (Levine, 2003).
2.2.5.3. Lấy tinh trùng từ mào tinh bằng vi phẫu thuật
(Microsurgical epididymal sperm aspiration-MESA) (Tournaye, 1999).
2.2.5.4. Lấy tinh trùng từ tinh hoàn bằng phẫu thuật xẻ tinh
hoàn (Testicular sperm extraction-TESE) (Devroey, 1995).
2.2.6. Các kỹ thuật xác định và đánh giá tổn thương
2.2.6.1. Kỹ thuật làm tiêu bản mô học thông thường (Vũ Công
Hoè, 1976).
2.2.6.2. Kỹ thuật nhuộm PAS (Putt, 1972).
2.2.6.3. Phương pháp đánh giá mức độ tổn thương của tinh hoàn
Ở mỗi bệnh nhân, chọn 3 tiêu nhuộm HE.
- Định lượng theo phương pháp của Silber S. (1999): đếm
từng loại tế bào trong thành ống sinh tinh dưới vật kính 40X.
- Bán định lượng theo phương pháp của Johnsen (1970):
bằng thang điểm từ 1 đến 10. Đánh giá và cho điểm 20 ống sinh
tinh trên mỗi bệnh nhân.

Nghiên cứu
trên toàn bộ
số bệnh nhân
đến khám
467 trường
hợp chẩn
đoán
azoospermia
Sinh thiết tinh
hoàn và kiểm
tra có hay
không có tinh
trùng ở mào
tinh
Nhóm I:
không có
tinh trùng ở
mào tinh
Nhóm II:
có tinh trùng
ở mào tinh
Lấy đủ tinh
trùng bằng
phương pháp
chọc hút tinh
trùng qua da
Không có hay
không đủ tinh
trùng bằng pp
chọc hút tinh

Bảng 3.1. Số lượng bệnh nhân trong các nhóm nghiên cứu
Nhóm Số bệnh nhân Tỷ lệ (%)
Nhóm I 309 66,17
Nhóm II 158 33,83
Tổng số 467 100
Bảng 3.1 cho thấy: số lượng bệnh nhân không có tinh trùng ở
mào tinh cao hơn số lượng bệnh nhân có tinh trùng ở mào tinh.
3.1.2. Nghề nghiệp
Bảng 3.2. Phân bố bệnh nhân azoospermia theo nghề nghiệp
trong nghiên cứu
Nghề nghiệp Số bệnh nhân Tỷ lệ (%)
Nông dân 189 40,47
Lao động tự do 84 17,99
Nhân viên văn phòng 59 12,64
Bộ đội, công an 54 11,56
Công nhân 54 11,56
Giáo viên 21 4,50
Bác sỹ 6 1,28
Tổng số 467 100
Bảng 3.2 cho thấy: bệnh nhân azoospermia là nông dân chiếm
tỷ lệ cao nhất với tỷ lệ 40,47%.
3.1.3. Tuổi
Tuổi trung bình của tất cả bệnh nhân azoospermia ở cả 2
nhóm là 34,25 ± 5,8.
Bảng 3.3. Tuổi trung bình của các nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Nhóm Nhóm I Nhóm II
10
(n = 309) (n = 158)
X
± SD 34,00 ± 5,754 34,61 ± 5,87

(n=309)
17,25 ± 14,65
(max:68;
min:1,9)
10,71 ± 9,25
(max:55;
min:2,4)
5,05 ± 5,46
(max:42; min:
1)
Nhóm II
(n=158)
6,38 ± 5,42
(max:25; min:
1,1)
5,47 ± 3,32
(max:15; min:
2)
5,33 ± 3,65
(max:16;
min:1,2)
p < 0,001 < 0,05 > 0,05
Bảng 3.5 cho thấy: ở nhóm II, các chỉ số FSH, LH và
testosterone trung bình của các bệnh nhân nằm trong giới hạn bình
thường. Ở nhóm I cho kết quả ngược lại.
3.2. CẤU TRÚC ỐNG SINH TINH CỦA BỆNH NHÂN
AZOOSPERMIA
3.2.1. Cấu trúc ống sinh tinh của bệnh nhân ở nhóm I
3.2.1.1. Định tính mức độ thoái hoá ống sinh tinh
11

± SD)
Các loại tế bào (n=309)
Tế bào Sertoli
12,31 ± 7,23
Tinh nguyên bào
5,71 ± 4,93
Tinh bào
12,28 ± 11,47
Tinh tử
0,52 ± 0,48
Tinh trùng
0,12 ± 0,11
Bảng 3.7 cho thấy: Tế bào Sertoli và tinh bào là những tế bào
chiếm số lượng lớn nhất trong biểu mô ống sinh tinh.
3.2.2. Cấu trúc ống sinh tinh của bệnh nhân ở nhóm II
3.2.2.1. Định tính mức độ thoái hoá ống sinh tinh
Các tế bào biểu mô tinh cũng bị thoái hoá không đều, ở mức độ
khác nhau. Có thể thấy các hình ảnh: Cạnh ống sinh tinh có cấu trúc
12
tương đối bình thường là những ống sinh tinh bị thoái hoá trầm trọng;
Cấu trúc bị đảo lộn; Xuất hiện các hình ảnh thoái hóa hốc; Xuất hiện
các lỗ khuyết, mảnh vỡ của biểu mô; lòng ống sinh tinh đặc.
3.2.2.2. Bán định lượng mức độ thoái hoá ống sinh tinh
Theo phương pháp của Johnsen bằng thang điểm từ 1 đến 10.
Điểm bán định lượng trung bình là: 7,70 ± 1,49.
3.2.2.3. Định lượng mức độ thoái hoá ống sinh tinh
* Đường kính ống sinh tinh và độ dày lớp áo xơ ống sinh tinh:
Bảng 3.8. Đường kính ống sinh tinh và độ dày lớp áo xơ ống
sinh tinh (μm) ở nhóm II (
X

Bảng 3.10. So sánh điểm Johnsen giữa 2 nhóm bệnh nhân
Nhóm I
X
± SD
(n = 309)
Nhóm II
X
± SD
(n = 158)
p
13
3,31 ± 2,19 7,70 ± 1,49
< 0,05
3.2.3.2. So sánh đường kính ống sinh tinh và độ dày lớp áo xơ
ống sinh tinh giữa 2 nhóm bệnh nhân
Bảng 3.11a. So sánh đường kính ống sinh tinh giữa 2
nhóm bệnh nhân
Nhóm
Đường kính ống sinh tinh (μm)
X
± SD
p
Nhóm I 115,73 ± 52,14
> 0,05
Nhóm II 142,21 ± 50,88
Bảng 3.11b. So sánh độ dày lớp áo xơ ống sinh tinh giữa 2
nhóm bệnh nhân (
X
± SD)
Nhóm Độ dày lớp áo xơ ống sinh tinh (μm) p

Nhóm I
(n = 309)
Nhóm II
(n = 158)
X
± SD 12,28 ± 11,47 45,29 ± 16,94
p < 0,001
3.2.3.6. Tinh tử
Bảng 3.15. So sánh số lượng tinh tử trên một mặt cắt
ngang của ống sinh tinh giữa 2 nhóm bệnh nhân
Nhóm
Nhóm I
(n = 309)
Nhóm II
(n = 158)
X
± SD 0,52 ± 0,48 4,09 ± 3,95
p < 0,001
3.2.3.7. Tinh trùng
Bảng 3.16. So sánh số lượng tinh trùng trên một mặt cắt
ngang của ống sinh tinh giữa 2 nhóm bệnh nhân
Nhóm
Nhóm I
(n = 309)
Nhóm II
(n = 158)
X
± SD 0,12 ± 0,11 2,35 ± 2,27
p < 0,001
3.2.3.8. Khả năng thu được tinh trùng, tinh tử trong ống sinh tinh

3.3.1.3. Tế bào dòng tinh
Ở bệnh nhân nhóm II và một số bệnh nhân ở nhóm I có thể
thấy tinh tử, tinh trùng trong ống sinh tinh. Bên cạnh các cấu trúc
bình thường, chúng tôi có thể nhận thấy các cấu trúc bất thường,
đa số là bất thường về đầu. Một số tinh tử, tinh trùng với acrosoma
có hình dạng méo mó bất thường, đặc biệt, có thể thấy hình ảnh
nhân phân thuỳ và ở nhân một số tế bào.
3.3.2. Những biến đổi riêng biệt của ống sinh tinh ở từng nhóm
bệnh nhân nghiên cứu
3.3.2.1. Tế bào dòng tinh
Ở nhóm I, có đến 80,91% các bệnh nhân không có tinh trùng
và tinh tử trong ống sinh tinh. Ở các bệnh nhân nhóm II, đa số các
trường hợp tôi thấy có đầy đủ các giai đoạn phát triển của các tế
bào dòng tinh.
3.3.2.2. Tế bào Sertoli
16
- Ở các bệnh nhân nhóm II, các tế bào Sertoli có cấu trúc gần
tương tự như ở người bình thường trưởng thành: các bào quan
phong phú, đặc biệt có các giọt lipit trong bào tương, màng nhân
gấp nếp, hạt nhân rõ và có hình ảnh đặc trưng.
- Ở các bệnh nhân nhóm I:
+ Ở các bệnh nhân có tinh trùng trong các ống sinh tinh
(chiếm 9,38% số các bệnh nhân ở nhóm I), các tế bào Sertoli cũng
có cấu trúc tương tự như các tế bào Sertoli ở nhóm II.
+ Ở các bệnh nhân còn lại, các tế bào Sertoli có cấu trúc của
tế bào Sertoli giảm hoạt động chức năng: Nhân có hình tròn và
nhỏ. Màng nhân không gấp nếp, hạt nhân có thể thấy hoặc không
thấy Bào tương không phân cực, các bào quan thưa thớt.
* Thể tích nhân tế bào Sertoli:
Bảng 3.18. Thể tíchtrung bình nhân tế bào Sertoli ở mỗi nhóm

nhân
Số chu
kỳ
Số bệnh
nhân có
Số chu
kỳ có
Tỷ lệ có thai (%)
Theo số
chu kỳ
Theo số
bệnh
nhân
124 126 35 35 27,78 28,22
Phương pháp PESA-ICSI là phương pháp được sử dụng chủ
yếu trong các chu kỳ hỗ trợ sinh sản cho các bệnh nhân
azoospermia.
3.4.2. Phương pháp MESA-ICSI
Được tiến hành cho các bệnh nhân azoospermia, khi không
thể thu được tinh trùng bằng cách chọc hút mào tinh, nhưng khi
bộc lộ mào tinh có thể thu được tinh trùng từ mào tinh.
Bảng 3.20. Kết quả điều trị của phương pháp MESA-ICSI
Số bệnh
nhân
Số chu
kỳ
Số bệnh
nhân có
Số chu
kỳ có

4.1. VỀ ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1.1. Đối tượng nghiên cứu
4.1.1.1. Đặc điểm chung của bệnh nhân azoospermia
- Tuổi của bệnh nhân nhóm I và nhóm II là tương đương
nhau (p > 0,05). Theo Kimura M. (2003) cấu trúc tinh hoàn biến
đổi theo tuổi. Vì vậy, việc so sánh giữa 2 nhóm bệnh nhân có cùng
độ tuổi là hết sức khách quan và chính xác.
- Ở nhóm II, mặc dù các nồng độ FSH, LH và testosterone
trung bình của nhóm trong giới hạn bình thường. Tuy nhiên, có
những bệnh nhân có nồng độ FSH, LH và testosterone nằm trong
giới hạn không bình thường. Ở nhóm I, mặc dù các nồng độ FSH,
LH trung bình của nhóm trong giới hạn không bình thường, nhưng
cũng có những bệnh nhân có nồng độ FSH, LH bình thường. Điều
này cũng khẳng định thêm rằng: nồng độ FSH, LH cũng không
phải là chỉ tiêu chính xác tuyệt đối để phân biệt các nhóm bệnh
nhân azoospermia và đánh giá quá trình sinh tinh.
4.1.1.2. Phân nhóm bệnh nhân azoospermia
Có tác giả chia nguyên nhân azoospermia ra làm 3 nhóm
chính đó là các nguyên nhân: tại tinh hoàn, trước tinh hoàn và sau
tinh hoàn. Tuy nhiên, không có tinh trùng do suy tuyến yên hiếm
gặp (khoảng 2,0%). Do đó hiện nay, về mặt lâm sàng, đa số các tác
giả có khuynh hướng chia các trường hợp không có tinh trùng thành
hai nhóm lớn: do tắc nghẽn và không do tắc nghẽn. Lý do của cách
phân chia này là vì thuận lợi cho điều trị. Hơn nữa với sự phát triển
của khoa học hiện nay cho thấy các bất thường về di truyền cũng là
19
nhóm nguyên nhân quan trọng, nếu chia thành 3 nhóm như vậy là
không hợp lý.
Trong các nghiên cứu khác nhau cho thấy: hiện nay chưa có
bất cứ phương pháp nào chính xác tuyệt đối có thể phân biệt được

lượng từng loại tế bào của biểu mô ống sinh tinh trên thiết diện cắt
ngang giảm đáng kể. Trong khi đó, độ dày lớp áo xơ tăng đáng kể
so với người bình thường trưởng thành.
4.2.2. Bệnh nhân có tinh trùng ở mào tinh (nhóm II)
Cũng so sánh kết quả với Silber (1999), Holstein A.F (2003),
McVicar và CS (2005) cho thấy: điểm Johnsen, đường kính và số
lượng từng loại tế bào của biểu mô ống sinh tinh trên thiết diện cắt
ngang giảm đáng kể. Trong khi đó, độ dày lớp áo xơ không có sự
khác biệt so với người bình thường trưởng thành.
Như vậy, sự tắc nghẽn đường dẫn tinh cũng là nguyên nhân
dẫn đến sự suy giảm quá trình sinh tinh, biến đổi cấu trúc ống sinh
tinh. Kết quả này cũng phù hợp với các kết quả một số tác giả khác.
4.2.3. So sánh cấu trúc vi thể ống sinh tinh của bệnh nhân giữa
2 nhóm nghiên cứu
So sánh cấu trúc vi thể ống sinh tinh của bệnh nhân giữa 2
nhóm nghiên cứu thông qua các chỉ tiêu như điểm Johsen, đường
kính, chiều dày lớp vỏ xơ ống sinh tinh nhận thấy: mức độ tổn
thương ở bệnh nhân ở nhóm I nặng nề hơn bệnh nhân ở nhóm II
4.3. BIẾN ĐỔI SIÊU CẤU TRÚC ỐNG SINH TINH CỦA
BỆNH NHÂN AZOOSPERMIA
Tế bào Sertoli ở nhóm II có sự thay đổi biểu hiện bằng: xuất
hiện các thể thực bào với kích thước rất lớn và giảm thể tích nhân.
Ở nhóm bệnh nhân nhóm I, phần lớn cấu trúc tế bào Sertoli
thể hiện sự giảm hoạt động chức năng với đặc điểm: nhân hình
tròn hay bầu dục, kích thước nhân nhỏ, màng nhân không gấp nếp,
hạt nhân có lúc không thấy, bào quan thưa thớt, không xuất hiện
các thể thực bào lớn. Cấu trúc tế bào Sertoli này có thể là hậu quả
của quá trình phát triển không bình thường của quá trình sinh tinh.
Đồng thời cho thấy rằng mối liên hệ khăng khít giữ các tế bào
Sertoli bình thường với một quá trình sinh tinh bình thường.

4.4.2.2. Bệnh nhân có tinh trùng ở mào tinh (nhóm II)
Những năm gần đây kỹ thuật ICSI đã được mở rộng và được
áp dụng cho các trường hợp không có tinh trùng trong tinh dịch.
22
Trong những trường hợp này người ta sẽ lấy tinh trùng từ mào tinh
hay tinh hoàn để thực hiện ICSI. Sự thành công của phương pháp
này đã góp phần làm tăng khả năng chấp nhận của kỹ thuật đình sản
nam bằng thắt ống dẫn tinh. Người đàn ông muốn có con lại sau khi
thắt ống dẫn tinh, ngoài biện pháp vi phẫu nối ống dẫn tinh, thì
phương pháp ICSI với tinh trùng lấy từ mào tinh là kỹ thuật khá
hiệu quả, ngay cả khi kỹ thuật nối ống dẫn tinh bằng vi phẫu thất
bại.
KẾT LUẬN
1. Những đặc điểm hình thái vi thể và siêu vi thể của ống sinh
tinh bệnh nhân không có tinh trùng trong tinh dịch:
- Ống sinh tinh có hiện tượng thoái hóa, kích thước thu nhỏ,
mô xơ phát triển quanh ống và mô kẽ. Mức độ tổn thương ở bệnh
nhân ở nhóm I nặng nề hơn bệnh nhân ở nhóm II.
- Không thấy tinh trùng trong đa số lòng ống sinh tinh ở
bệnh nhân nhóm I; trong khi ở bệnh nhân nhóm II, hầu hết có tinh
trùng trong lòng ống sinh tinh.
- Đặc điểm thoái hóa của biểu mô ống sinh tinh và của tế bào
dòng tinh là thoái hóa hốc; mức độ thoái hóa nhóm II ít hơn nhóm I.
- Tế bào Sertoli ở bệnh nhân nhóm II chưa biến đổi nhiều về
hình thái, trong bào tương xuất hiện nhiều thể thực bào. Ở bệnh
nhân nhóm I, tế bào Sertoli có hình ảnh giảm hoạt động chức năng
với biểu hiện: nhân tròn và nhỏ, màng nhân không gấp nếp, hạt
nhân nhỏ hoặc không có, bào quan thưa thớt.
2. Kết quả bước đầu một số kỹ thuật thu gom tinh trùng
cho phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) ở


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status