Tìm hiểu ảnh hưởng của các loại thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cá chẽm (lates calcarifer bloch, 1790) giai đoạn 2 đến 45 ngày tuổi, tại trung tâm nghiên cứu và phát triển nuôi b - Pdf 15

0

MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1
PHẦN 2: TỔNG LUẬN 3
1. Nghề nuôi cá Chẽm trên thế giới 3
2. Nghề nuôi cá Chẽm Ở Việt Nam 3
3. Đặc điểm sinh học 3
3.1 Hệ thống phân loại 3
3.2 Hình thái và đặc điểm phân loại (theo FAO, 1974) 4
3.3 Phân bố 5
3.4 Vòng đời 6
4. Quá trình phát triển của ấu trùng cá Chẽm 7
5. Đặc Điểm sinh trưởng 8
6. Đặc điểm sinh học sinh sản 9
6.1 Phân biệt giới tính 9
6.2 Thành thục sinh dục 10
6.3. Sức sinh sản và đẻ trứng 10
7. Đặc điểm dinh dưỡng và nhu cầu dinh dưỡng 10
7.1 Tính ăn và khổ thức ăn 10
7.2 Nhu cầu dinh dưỡng 11
8. Tình hình nghiên cứu về cá Chẽm trên thế giới 12
8.1. Những nghiên cứu về sinh sản nhân tạo 12
8.2. Những nghiên cứu về thức ăn 12
9. Tình hình nghiên cứu về cá Chẽm ở Việt Nam 13
PHẦN 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 15
1. Đối tượng, thời gian, địa điểm nghiên cứu: 15
2. Vật liệu nghiên cứu: 15
2.1 Các loại thức ăn sử dụng 15
2.2 Dụng cụ thí nghiệm 16

1.7 Phòng và trị bệnh 28
1.7.1 Bệnh nấm đỏ 28
1.7.2 Bệnh ký sinh trùng bám 28
2. Ảnh hưởng của mật độ Rotifer lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cá
Chẽm Lates calcarifer từ 2-15 ngày tuổi 29
2.1 Ảnh hưởng lên sinh trưởng (theo chiều dài) 29
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
2

2.2 Ảnh hưởng của mật độ Rotifer đến tỷ lệ sống 31
3. Ảnh hưởng của các loại thức ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cá
Chẽm giai đoạn 25 - 45 ngày tuổi 31
3.1 Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến sinh trưởng 31
3.2 Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến tỷ lệ 36
PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 39
5.1 Kết luận 39
5.2 Đề xuất ý kiến 40


Hình 16: Lưới lọc cá 24
Hình 17: Chiều dài trung bình của cá giai đoạn 2 - 45 ngày tuổi 25
Hình 18: Tỷ lệ sống của cá giai đoạn 2-15 ngày tuổi 29
Hình 19: Chiều dài trung bình của cá giai đoạn từ 25-45 ngày tuổi 31
Hình 20: Tăng trưởng của cá theo trọng lượng ở các lô thí nghiệm khác nhau
từ 25 - 45 ngày tuổi 32
Hình 21: Tỷ lệ sống, tỷ lệ chết quan sát và tỷ lệ chết ăn nhau của cá giai đoạn 25 - 45
ngày tuổi 33
Hình 22 : Tỷ lệ sống, tỷ lệ chết quan sát và tỷ lệ chết ăn nhau
của cá giai đoạn 25 - 45 ngày tuổi 36

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
4

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1: Một số yếu tố môi trường 23
Bảng 2: Sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng giai đoạn 1 – 60 ngày tuổi 28
Bảng 3: Khối lượng trung bình của cá ở các thời điểm nuôi khác nhau 29
Bảng 4: Tăng trưởng % theo chiều dài thân giai đoạn 2-15 ngày tuổi 30
Bảng 5: Sự biến động pH ở các bể ương nuôi
trong giai đoạn 2 – 15 ngày tuổi 30
Bảng 6: Tăng trưởng của cá theo % chiều dài 32
Bảng 7: Tăng trưởng theo % trọng lượng cơ thể 33
Bảng 8: Các chỉ tiêu về tỷ lệ sống, tỷ lệ chết quan sát
và tỷ lệ chết do ăn nhau (đơn vị %) 36
Bảng 9: Kết quả nghiên cứu của Hồ Công Hường 38

Ngoài ra trong suốt quá trình thực tập tôi đã được anh Nguyễn Hữu Hùng
hướng dẫn trực tiếp, chỉ cho tôi phương pháp bố trí thí nghiệm để tôi hoàn thành
đề tài, xin chân thành cảm ơn anh.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ công nhân viên của
Trung tâm Sông Lô, gia đình và bạn bè đã luôn ở bên giúp đỡ, góp ý cho tôi.
Xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Thảo Sương PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
6

PHẦN 1: MỞ ĐẦU

Từ lâu cá Chẽm (Lates calcarifer) được đánh giá là loài cá đặc sản, được
ưa thích và có giá trị cao. Vì vậy cá Chẽm đã được đưa vào sản xuất quy mô lớn
ở nhiều nước trên thế giới trong những thập niên qua. Ở Việt Nam, ngành nuôi
trồng thuỷ sản sau hai thập kỷ phát triển mạnh với đối tượng chính là tôm Sú, nay
đã có bước chuyển biến mới. Đối tượng nuôi trồng ngày càng đa dạng, hình thức

cá Chẽm giai đoạn 2 đến 15 ngày tuổi.
§ Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng
cá Chẽm giai đoạn 25 đến 45 ngày tuổi.
Do kiến thức có hạn nên đề tài của tôi sẽ không thể tránh khỏi những thiếu
sót, rất mong sự góp ý của thầy cô và bạn bè để đề tài của tôi được hoàn thiện
hơn. Xin chân thành cảm ơn. Nha Trang, tháng 11/2006.
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Thảo Sương PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
8

PHẦN 2: TỔNG LUẬN

1. Nghề nuôi cá Chẽm trên thế giới
Từ những năm 1970, Thái Lan đã sản xuất được giống cá Chẽm hàng loạt,
đến năm 1981 Thái Lan sản xuất được 20 triệu cá Chẽm bột (Mackingnon 1984
và Sirike 1982). Từ đó nghề nuôi cá Chẽm thương phẩm ở Thái Lan phát triển
mạnh và cá Chẽm là một trong những đối tượng chính của nghề nuôi cá biển.
Cho đến nay sản lượng cá Chẽm của Thái Lan đã lên đến hàng ngàn tấn (năm
1996 sản lượng cá Chẽm của Thái Lan đạt 2998 tấn [3]).
Từ Thái Lan, nghề nuôi cá Chẽm cũng đã phát triển lan rộng ra các nước
trong khu vực châu Á Thái Bình Dương nơi có cá Chẽm phân bố tự nhiên như
Autralia, Indonesia, Malaixia, Philippine, Đài Loan, Singapore, Trung Quốc,
Việt Nam.

Họ Centropomidae
Giống Lates
Loài Lates calcarifer (Bloch, 1790)
3.2 Hình thái và đặc điểm phân loại (theo FAO, 1974) Hình 1: Hình thái ngoài cá Chẽm
Cá Chẽm có thân dài, dẹp, cuống đuôi khuyết sâu. Đầu nhọn, nhìn bên
lõm phía lưng và lồi ở phía trước vây lưng. Miệng rộng, hơi so le, hàm trên
chồm tới phía sau, răng dạng lông nhung, không có sự hiện diện của răng
nanh. Mép dưới của xương trước nắp mang có gai cứng, nắp mang có một
gai nhỏ và một vảy bên có răng cưa trước đầu đường bên. Vây lưng có 7 - 9
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
10

gai và 10 - 11 tia mềm; có đường vạch sâu hầu như chia gai ra khỏi phần
mềm của tia vây ngực ngắn và tròn, cá có dãy răng cưa cứng và ngắn phía
trên gốc, vây lưng và vây hậu môn có vẩy bao phủ. Vây hậu môn tròn có 3
gai, 7 - 8 tia mềm, vây đuôi tròn. Vẩy dạng lược rộng (xù xì hay nhẵn).
Màu sắc: Có 2 giai đoạn, thường giai đoạn giống, cá có màu nâu ôliu ở
phía trên với màu bạc ở các bên và bụng khi cá sống trong môi trường nước biển

dục tìm thấy ở vùng cửa sông, hồ (ví dụ: hồ Songkhla) hay các đầm nước lợ nơi
có nồng độ muối dao động 30 - 32 ppt và độ sâu từ 10 - 15 m. Ấu trùng mới nở
(15 - 20 ngày tuổi, dài 0,4 - 0,7 cm) thường phân bố ven bờ biển gần các cửa
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
11

6sông nước lợ, trong khi đó ấu trùng cỡ 1 cm có thể gặp ở trong thuỷ vực nước
ngọt, ví dụ: ruộng lúa, hồ, (Bhatia và Kungvankij, 1971). Trong điều kiện tự
nhiên, cá Chẽm lớn lên ở nước ngọt và di cư ra vùng nước mặn để đẻ.
3.4 Vòng đời
Cá Chẽm trải qua phần lớn thời gian sinh trưởng (2 - 3 năm) trong các
thuỷ vực nước ngọt như: sông, hồ nơi nối liền với biển. Cá có tốc độ tăng trưởng
nhanh, thường đạt cỡ 3 – 5 kg sau 2 – 3 năm. Cá trưởng thành 3 – 4 tuổi di cư từ
vùng nước ngọt về vùng cửa sông và ra biển nơi có nồng độ muối dao động 30 –
32 ppt để phát triển tuyến sinh dục và đẻ trứng sau đó. Cá đẻ trứng theo chu kỳ
trăng (thường vào lúc khởi đầu của tuần trăng hay lúc trăng tròn) vào lúc buổi tối
(18 – 20 giờ) và thường đồng thời với thuỷ triều lên. Điều này giúp trứng và ấu
trùng trôi vào vùng cửa sông. Nơi đó ấu trùng sẽ phát triển và di chuyển ngược
dòng để lớn lên. Hiện tại, điều chưa biết là cá trưởng thành có di cư ngược dòng
không hay chúng giữ giai đoạn còn lại của đời sống ở biển.
Smith (1965) ghi rằng, một số loài cá sống cả vòng đời trong nước ngọt
nơi chúng lớn lên đến cỡ 65 cm dài và trọng lượng 19,3 kg. Tuyến sinh dục của
những cá đó không phát triển. Trong môi trường nước lợ, cá Chẽm đạt chiều dài
1,7 m được tìm thấy ở vùng Indonesia – Úc (Weber & Beaufor 1936)

Hai ngày sau khi nở, cá có chiều dài 2,52 ± 0,06 mm, noãn hoàng cá
hầu như được sử dụng hết và hạt dầu còn không đáng kể. Ở giai đoạn này,
miệng cá mở ra và hàm bắt đầu cử động, ấu trùng bắt đầu ăn thức ăn ngoài.
Lúc này cá có tập tính hướng quang.
Cá 7 ngày tuổi có chiều dài 3,44 ± 0,09 mm, tia vây lưng và tia hậu môn
bắt đầu xuất hiện, có răng cưa ở xương nắp mang trước. Sắc tố đen xuất hiện từ
đầu đến đuôi làm cho cá có màu đen.
Cá 14 ngày tuổi có chiều dài 4,75 ± 0,32 mm. Vây lưng và vây hậu
môn đã tách khỏi vây đuôi, vây bụng bắt đầu xuất hiện, tia vây đuôi đã phát
triển. Từ giữa vây lưng đến vây hậu môn xuất hiện một dải băng trắng có thể
nhìn thấy bằng mắt thường.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
13

Khi đạt 18 - 20 ngày tuổi, cá bước và cuối giai đoạn biến thái với sự xuất
hiện của 3 sọc: một sọc ở cuống đuôi, một sọc ở gốc vây lưng giữa phần tia cứng
và phần tia mềm, sọc thứ ba ngang qua đầu.
Cá 21 ngày tuổi có chiều dài 8,91 ± 1,19 mm. Lúc này số lượng tia vây cứng,
tia vây mềm của vây lưng và vây hậu môn đã ổn định. Vẩy xuất hiện ở bề mặt của hai
bên thân phía trên vây bụng. Màu sắc của cá chuyển từ màu đen sang màu nâu nhạt.
Kungvankij & ctv (1986) cho rằng có ít nhất hai giai đoạn hình thành
sắc tố ở ấu trùng cá Chẽm. Ở giai đoạn 10 - 12 ngày tuổi sau khi nở, sắc tố
xuất hiện có màu xám sậm hay đen; giai đoạn tiếp theo khoảng 25 - 30 ngày
tuổi, cá chuyển sang màu sáng bạc. Quan sát thấy rằng ở giai đoạn này,
những cá thể khoẻ mạnh bơi lội chủ động thường có màu nhạt, trong khi đó
cá không khoẻ có cơ thể màu đen hay sậm [16].


- Những vẩy gần lỗ huyệt của cá đực dày hơn cá cái trong mùa sinh sản.
- Trong mùa sinh sản thì bụng cá cái hơi phồng to hơn cá đực.

Hình 6: Cá đực và cá cái đã thành thục

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
15

6.2 Thành thục sinh dục

Chẽm phát triển đạt kích thước từ 1,1 - 2cm TL, thức ăn của chúng là cá cỡ nhỏ
và loại thức ăn này chỉ chiếm một phần nhỏ trong khẩu phần thức ăn hàng ngày
của chúng (khoảng 8%). Nhưng tỷ lệ phần trăm cá cỡ nhỏ trong khẩu phần thức
ăn hàng ngày của cá Chẽm lại tăng lên tới 87% khi chiều dài thân cá lớn hơn 100
cm TL [9].
Theo Nguyễn Thanh Phương (1994), cá Chẽm trưởng thành được xem là
loài cá dữ phàm ăn nhưng cá Chẽm giống lại ăn tạp. Phân tích dạ dày các mẫu cá
Chẽm thu được ngoài tự nhiên (cỡ 1 - 10cm TL) thì thấy có khoảng 20% là
phiêu sinh vật, chủ yếu là nhóm tảo khuê và phù du thực vật, phần còn lại gồm
tôm cá cỡ nhỏ (Kungvankij 1971). Đối với cá cỡ lớn hơn 20 cm TL, trong dạ dày
chứa 100% là mồi động vật, trong đó 70% là giáp xác (tôm, cua nhỏ) và 30% là
cá nhỏ. Những loài cá tìm thấy trong ruột cá Chẽm ở giai đoạn này chủ yếu là
Slipmouth hay cá Liệt (Leiognatus sp) và cá Đối (Mugil sp). [6]
7.2 Nhu cầu dinh dưỡng:
Cá Chẽm là loài cá dữ nên nhu cầu prôtêin trong thức ăn ở mức cao [27].
Sakaras & ctv (1988) xác định nhu cầu protein thô của cá Chẽm ở giai đoạn ấu
niên là vào khoảng 50% [24]. Hàm lượng protein tối ưu đối với cá Chẽm trưởng
thành vào khoảng 40-45% [28].
Hiện tượng cá Chẽm chết hàng loạt ở giai đoạn ấu trùng là do liên
quan đến chất lượng dinh dưỡng trong thức ăn, đặc biệt là giai đoạn biến thái
hình thái (metamorphosis) thành cá con (Juvenile) (Schipp1996) [11]. Ngoài
ra, protein cũng ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ sống của cá. Thức
ăn cho cá Chẽm có hàm lượng protein càng cao thì cá tăng trưởng càng
nhanh và hệ số thức ăn giảm, nhu cầu protein cho cá Chẽm tăng trưởng ở
mức 63% (Kosutaraca, 1984).
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
17

8. Tình hình nghiên cứu về cá Chẽm trên thế giới:
8.1 Những nghiên cứu về sinh sản nhân tạo

18

và 69%. Trong khi đó cá Chẽm từ 21 - 28 ngày tuổi cũng cho ăn bằng động vật
phù du nhân tạo với tỉ lệ là 0,12 g /30 L nước, lòng đỏ trứng 0,3 g /30 L nước, lập
công thức thức ăn 0,5 g /30 L nước và Arctemia 3ct /ml làm đối chứng. Kết quả
tỉ lệ sống tương ứng là 39,55%, 55%, 24,5% và 76% (Pechmane và Ugkanon và
Tatatia 1984).
Nishinaka và Nishmura 1987 đã thử nghiệm thay thế một nửa thức ăn
sống bằng thức ăn viên có màng bọc protein (15 - 150µm) kết quả không ảnh
hưởng lên tỉ lệ sống và tăng trưởng của ấu trùng [10]. Ngược lại ấu trùng có thể
ăn thức ăn viên nhưng chúng không thể tiêu hoá được thức ăn này (Walford và
ctv, 1991). Trong khi đó lượng nước trong thức ăn viên cho cá Chẽm lại không
ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ sống nhưng lại ảnh hưởng một phần
đến hệ số chuyển đổi thức ăn (Chou, 1984 và Chong, 1986).
Kết quả nghiên cứu của Viện Nuôi trồng Hải sản Thái Lan (NICA 1983a)
về thử nghiệm sử dụng 50% thức ăn viên có hàm lượng protein khác nhau (30,
40, 50%) kết hợp với 50% cá tạp để ương cá chẽm 0,3 - 0,4 g /con (60 ngày tuổi)
kết quả đạt mức tăng trưởng riêng /ngày là 0,115 mg/ngày; 0,112 mg /ngày;
0,123 mg/ngày tương ứng với mức protein khác nhau.
9. Tình hình nghiên cứu về cá Chẽm ở Việt Nam
Từ thập niên 70, ở nước ta mới chỉ có những nghiên cứu về những đặc điểm
phân loại, hình thái nhận dạng và vùng phân bố của cá Chẽm như những nghiên cứu
của Mai Đình Yên (1979). Đến những năm 90 đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu, đề
tài khoa học tập trung nghiên cứu đối tượng cá Chẽm như: Nguyễn Quang Huy
(1999) cho rằng thức ăn tốt cho cá Chẽm ở giai đoạn từ 20 - 40 ngày tuổi là luân
trùng kết hợp với N-artemia, mật độ nuôi ảnh hưởng đến cá giai đoạn từ 20 - 40
ngày tuổi, độ mặn thích hợp cho sự phát triển phôi là 34 ppt. Võ Ngọc Thám (1995),
điều tra một số đặc điểm sinh học sinh sản của cá Chẽm ở đầm Nha Phu, Khánh
Hoà, đã xác định được mùa vụ sinh sản, cỡ thành thục và vị trí bãi đẻ ở đó.
Lương Công Trung (1999), thử nghiệm sinh sản nhân tạo cá Chẽm (Lates


PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
20

PHẦN 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng, thời gian, địa điểm nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Cá Chẽm Lates calcarifer (Bloch, 1790)
Thời gian nghiên cứu : Từ ngày 8 /8 /2006 đến 11 /11 /2006.
Địa điểm nghiên cứu: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nuôi biển
Sông Lô, Nha Trang



Hình 9: Hệ thống bể thí nghiệm.
2.3 Các thiết bị đo lường:
- Nhiệt kế thuỷ ngân: Dùng để đo nhiệt độ, chính xác đến 1
o
C.
- Sali kế: Dùng để đo độ mặn, chính xác đến 1 ppt.
- Máy đo pH: Dùng để đo pH, chính xác đến 0,1.
- Máy đo DO: Dùng để đo hàm lượng oxy hoà tan, chính xác đến 0,01 mg /L.
- Pipet định lượng Rotifer và Artemia.
- Cân điện tử hiệu AND của Nhật Bản phạm vi sử dụng 42 g với độ
chính xác 0,01 mg.
- Kính hiển vi soi nổi và thước thẳng.
- Cân thức ăn với độ chính xác 0,01 g.

Hình 10: Kính hiển vi soi nổi

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com

trưởng và tỷ lệ sống. Nội dung nghiên cứu

Tìm hiểu
kỹ thuật
ương nuôi
cá Chẽm
(Lates
calcarifer)

Ảnh hưởng
của mật độ
Rotifer đến
sinh trưởng
và tỷ lệ
sống của ấu
trùng cá
Chẽm giai
đoạn 2 đến
15 ngày tuổi

Ảnh hưởng
của các loại
thức ăn đến
sinh trưởng
và tỷ lệ
sống của ấu
trùng cá

Hình 12: Sơ đồ bố trí thí nghiệm ảnh hưởng của mật độ luân trùng

Ÿ Chăm sóc quản lý:
Trong suốt quá trình thí nghiệm (2 đến 15 ngày tuổi) mật độ Rotifer luôn
được duy trì ở mức xác định.
Hằng ngày cho cá ăn vào lúc 7 giờ sáng và 14 giờ. Trước khi cho ăn,
xác định mật độ Rotifer đưa vào và mật độ Rotifer còn lại để bổ sung cho
đúng mật độ 10; 20 và 30 con /mL.
Cá Chẽm mới nở
Tăng trưởng theo chiều dài,
Tỷ lệ sống
10con/mL 20con/mL 30con/mL
Đánh giá và kết luận
Cá Chẽm mới nở
Lô 1
10 con/mL

Lô 2
20 con/mL
20


Số lượng cá thu là 30 con/mẫu. Sau 15 ngày ương thu cá để xác định tỷ lệ sống.
3.4 Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống:
3.4.1 Bố trí thí nghiệm:
- Hệ thống thí nghiệm gồm 3 lô, mỗi lô lập lại 3 lần.
- Thí nghiệm tiến hành trong các bể nhựa có thể tích nước là 100 L. Sục
khí liên tục cả ngày.
- Mật độ cá thả 15 con/ L
- Nước biển cấp vào bể đã qua lắng, xử lý bằng tia cực tím và lọc sạch.

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com

Trích đoạn Phương pháp xử lý số liệu Nuôi tảo
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status