Bàn về kế toán quản trị trong các Doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay - Pdf 15

Đề án môn học Kế toán tài chính 1 GVHD: TS Chu Thành
LỜI NÓI ĐẦU
Đối tượng của kế toán là tài sản và sự vận động của tài sản. Ở mức độ khái
quát nhất thì đó là tài sản lưu động, tài sản cố định. Ở mức độ chi tiết hơn thì đó
là các loại tài sản: tiền, nợ phải thu, các khoản đầu tư, hàng tồn kho, tài sản cố
định, v.v…. Ở mức độ chi tiết hơn nữa là: tiền gì? ở đâu? nợ phải thu ở đối
tượng nào? trong hạn thanh toán hay quá hạn? khoản đầu tư vào đối tượng
nào? hiệu quả đầu tư ra sao? cụ thể từng thứ hàng tồn kho ở mức độ nào, chất
lượng như thế nào? phù hợp vơi mục đích kinh doanh hay không? v.v… Cứ
như vậy, tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý cụ thể mà chi tiết hơn nữa các đối
tượng kế toán, nhằm cung cấp các thông tin phục vụ cho hoạt động quản lý và
điều hành tổ chức.
Với các yêu cầu của kế toán: phản ánh chính xác, phản ánh trung thực, phản
ánh kịp thời và các yêu cầu cụ thể khác. Những yêu cầu này lại chính là do nhu cầu
sử dụng thông tin đặt ra. Xét theo đối tượng sử dụng thông tin thì nhu cầu sử dụng
thông tin gồm: Nhu cầu sử dụng thông tin của các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp
và các đối tượng bên trong doanh nghiệp. Mục dích sử dụng thông tin của các đối
tượng này có khác nhau, nên nhu cầu thông tin của các đối tượng này cũng khác
nhau. Các đối tượng bên ngoài sử dụng các thông tin để phục vụ cho việc ra các
quyết định liên quan đến mối quan hệ kinh tế, giữa doanh nghiệp và các đối tượng
này hoặc là phục vụ cho mục tiêu quản lý kinh tế của Nhà nước. Các đối tượng bên
trong doanh nghiệp thì sử dụng các thông tin này phục vụ cho hoạt động quản lý và
điều hành doanh nghiệp. Nhu cầu thông tin khác nhau sẽ quy định những nội dung
thông tin khác nhau. Những nội dung thông tin có thể được cung cấp bởi những kênh
thông tin khác nhau. Nhưng nếu những thông tin được cung cấp từ một kênh thì
phải có tính thống nhất, tính hệ thống nghĩa là đối chiếu được và cần thiết phải
đối chiếu, nhằm tăng cường tính chính xác, tính trung thực của thông tin.
Kênh thông tin kế toán cung cấp những thông tin về tình hình kinh tế tài
chính của doanh nghiệp cho các đối tượng bên trong và bên ngoài doanh
nghiệp, thì các thông tin này phải có chung điểm xuất phát là hệ thống chứng
Sinh viên: Ngô Thị Phượng Liên Lớp Kế toán 16A

việc đo lường tính toán kết quả của quy trình sản xuất, theo từng bộ phận tham gia
trong quy trình nhằm thỏa mãn nhu cầu khách hàng.
Với hệ thống kế toán hướng vào quy trình sản xuất sẽ giúp nhà quản trị doanh
nghiệp trên các khía cạnh sau:
- Thứ nhất là hiểu được mối quan hệ nhân quả. Ví dụ, cái gì làm phát sinh chi
phí; tại sao các hoạt động này không sinh lợi .
- Thứ hai là nhận diện những hoạt động không làm tăng thêm giá trị ví dụ như
nhận diện những công việc thừa hay những hoạt động không đáp ứng yêu cầu của
khách hàng từ đó có thể tổ chức lại quá trình sản xuất cho hợp lý.
- Thứ ba là hiểu được mối quan hệ giữa các sự kiện trong chuỗi các sự kiện, ví
dụ thông tin kế toán quản trị có thể chỉ ra ảnh hưởng của nhà cung cấp hay nhà phân
phối đến giá trị sản phẩm hay dịch vụ mà khách hàng phải trả.
- Thứ tư là tách biệt các tác động bên trong và bên ngoài tổ chức, ví dụ kế toán
quản trị có thể chỉ ra bộ phận nào của quá trình sản xuất cản trở khả năng sản xuất và
đưa đến sự bất mãn cho khách hàng.
Hệ thống kế toán quản trị còn có tác động đến hành vi của các cá nhân trong tổ
chức là do cách thức đo lường của kế toán quản trị có thể làm ảnh hưởng đến cách cư
xử của con người trong tổ chức, biểu hiện ở chỗ:
- Làm thay đổi nhận thức: Cái mà được đo lường, tính toán, thường được nổi
bật và người ta thấy rõ vật đó hơn. Vì vậy thông thường các quyết định sẽ được đưa
ra sau khi đã có sự đo lường tính toán cụ thể. Ví dụ như các tính toán về chi phí cho
Sinh viên: Ngô Thị Phượng Liên Lớp Kế toán 16A
Đề án môn học Kế toán tài chính 4 GVHD: TS Chu Thành
việc bảo vệ môi trường sẽ làm cho nhà quản trị nghiêng về phía quyết định mua thiết
bị không thải khí hại môi trường dù giá cả có đắt hơn.
- Khuyến khích các hành vi đúng đắn: Khi một khoản được tính toán thì đó là
dấu hiệu của mong muốn thay đổi thái độ và hành vi, ví dụ khi tính toán tỷ lệ việc
giao hàng đúng hạn là dấu hiệu của sự mong muốn giao hàng đúng hạn nhiều hơn và
sau khi tính toán được tỷ lệ này sẽ dẫn đến hành vi lựa chọn nhà cung cấp có uy tín
về thời hạn giao hàng.

- Về phạm vi: Kế toán quản trị gồm các thông tin tài chính như giá phí,
thông tin tác nghiệp như tỷ lệ sản phẩm hỏng v.v…
- Về mục đích: Kế toán quản trị giúp cho tổ chức đạt mục tiêu chiến lược
nhưng đó không phải là mục tiêu lập báo cáo tài chính hay báo cáo thuế.
- Về thuộc tính: Kế toán quản trị gồm ba thuộc tính: Kỹ thuật, hành vi
ứng xử và văn hóa.
Hệ thống kế toán là một cơ chế chính thức có chức năng thu thập, tổ chức và
chuyển giao thông tin về các hoạt động của doanh nghiệp. Hệ thống kế toán tài chính
với với chức năng công khai thông tin được chuẩn hoá bởi quy định của nhà nước.
Ngược lại, hệ thống kế toán quản trị nội bộ không bị kiểm soát mà phụ thuộc vào nhu
cầu của ban quản trị.
Những người sử dụng thông tin kế toán bao gồm:
- Các đối tác bên ngoài như nhà đầu tư hay chính phủ cần thông tin kế toán tài
chính để ra các quyết định đối với công ty.
- Những người điều hành công ty chịu trách nhiệm lập kế hoạch ngắn hạn và
kiểm soát các hoạt động thường nhật và những người đứng đầu công ty chịu trách
nhiệm quyết định các chính sách, chiến lược dài hạn hoặc không mang tính thường
nhật như: đầu tư thiết bị, định giá sản phẩm và dịch vụ, lựa chọn sản phẩm cần chú
trọng... của công ty. Thông tin họ cần là kế toán quản trị.
Như vậy, có thể định nghĩa "kế toán quản trị" là quá trình xác định, đo lường,
tổng hợp, phân tích, chuẩn bị, giải thích và chuyển giao thông tin giúp cho những
người điều hành kinh doanh đạt được mục tiêu của doanh nghiệp.
Sinh viên: Ngô Thị Phượng Liên Lớp Kế toán 16A
Đề án môn học Kế toán tài chính 6 GVHD: TS Chu Thành
Kế toán quản trị đi sâu phân tích các luồng thông tin kế toán trong chuỗi giá trị
của tổ chức kinh doanh. Chuỗi giá trị được hiểu là chuỗi các hoạt động sản xuất kinh
doanh tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp. Các hoạt
động này có thể bao gồm:
- Nghiên cứu & phát triển.
- Thiết kế.

rõ ràng như chi phí lao động gián tiếp, chi phí bảo dưỡng máy móc thiết bị...
- Chi phí cố định (định phí) là những khoản chi phí mà tổng số không
thay đổi khi có sự thay đổi mức độ hoạt động, nhưng chi phí trung bình của
một đơn vị hoạt động thì thay đổi tỷ lệ nghịch với mức biến động của mức hoạt
động. Chi phí cố định không thay đổi về tổng số trong phạm vi phù hợp của
mức độ hoạt động (ví dụ như chi phí khấu hao máy móc thiết bị sản xuất sẽ
không thay đổi trong phạm vi khối lượng sản xuất từ 0 đến 2.000 tấn) nhưng
nếu mức độ hoạt động tăng vượt quá phạm vi phù hợp đó thì chi phí khấu hao
máy móc thiết bị sản xuất sẽ tăng vì phải đầu tư thêm máy móc thiết bị sản
xuất.
- Chi phí hỗn hợp là loại chi phí mà bản thân nó gồm cả các yếu tố của
CPCĐ và CPBĐ (như chi phí điện thoại, Fax, chi phí thuê phương tiện vận
chuyển vừa tính giá thuê cố định, vừa tính giá thuê theo quãng đường vận
chuyển thực tế...).
KTTC không phân chia chi phí theo tiêu thức này nhưng nó lại rất cần thiết
cho KTQT, giúp nhà quản trị có cách nhìn nhận chi phí, sản lượng và lợi nhuận để có
quyết định quản lý phù hợp về số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ, về giá bán sản
phẩm trong từng giai đoạn cụ thể về việc nhận đơn đặt hàng mới với giá thấp hơn giá
đang bán...
Sinh viên: Ngô Thị Phượng Liên Lớp Kế toán 16A
Đề án môn học Kế toán tài chính 8 GVHD: TS Chu Thành
Bảng 1.2: Khái quát phân loại theo cách ứng xử của chi phí
Khoản mục chi phí TK
Biến
phí
Định
phí
Chi phí
hỗn hợp
Ghi

- Phần vật liệu dùng cho sửa chữa, bảo dưỡng TSCĐ được coi là định phí.
(2) Chi phí dụng cụ sản xuất: Được coi là chi phí hỗn hợp, nó là chi phí về
công cụ, dụng cụ dùng để sản xuất tạo ra sản phẩm.
Sinh viên: Ngô Thị Phượng Liên Lớp Kế toán 16A
Đề án môn học Kế toán tài chính 9 GVHD: TS Chu Thành
Là biến phí: Nếu một khuôn mẫu đúc sử dụng có định lượng số sản phẩm sản
xuất, vượt quá số sản phẩm này phải thay khuôn
Là định phí: Nếu căn cứ vào thời gian sử dụng một mẫu, khuôn để thay mà
không quan tâm đến lượng sản phẩm sản xuất của một khuôn mẫu.
(3) Chi phí dịch vụ thuê ngoài: Loại chi phí này bao gồm nhiều nội dung tuỳ
theo phương thức trong hợp đồng thuê, có thể là định phí, hay chi phí hỗn hợp.
(4) Chi phí vật liệu bao bì của chi phí bán hàng: Là chi phí hỗn hợp.
Là biến phí: thay đổi theo lượng hàng hoá tiêu thụ như: vật liệu dùng cho bảo
đảm, hoặc dùng cho sửa chữa TSCĐ ở khâu bán hàng…
(5) Thuế và lệ phí của chi phí quản lý: Gồm nhiều loại thuế và lệ phí khác
nhau.
Là biến phí: Gồm các lệ phí và thuế tính theo kết quả kinh doanh.
Là định phí: Gồm thuế môn bài, thuế vốn, thuế nhà đất.
Cả hai hệ thống kế toán đều có chức năng cung cấp thông tin cho nhà quản trị
nhằm mục đích điều hành doanh nghiệp. Tuy nhiên, KTQT có một số khác biệt so
với KTTC thông thường:
- Kế toán quản trị không bắt buộc phải thực hiện trong doanh nghiệp.
Tuỳ theo nhu cầu thực tế, doanh nghiệp có thể duy trì hoặc không duy trì hệ
thống báo cáo này. Kế toán quản trị hiện chỉ sử dụng trong các tập đoàn và các
công ty có qui mô vừa trở lên.
- Mục tiêu của báo cáo nhằm cung cấp thêm các thông tin chi tiết về một
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Báo cáo của kế toán quản trị chỉ sử dụng trong phạm vi doanh nghiệp,
không công bố ra ngoài.
- Kỳ lập báo cáo kế toán quản trị có thể không cố định.

chi phí).
- Đối với KTQT: Sử dụng cả số liệu lịch sử và số liệu ước tính nhằm cung cấp
các thông tin hướng về tương lai nên sẽ cung cấp thông tin chi phí theo khoản mục,
phân tích chênh lệch giữa chi phí thực tế và chi phí định mức để đánh giá trách nhiệm,
ngoài ra còn đảm bảo yêu cầu cung cấp thông tin nhanh trong kỳ. Do đó, cần phải:
Sinh viên: Ngô Thị Phượng Liên Lớp Kế toán 16A
Đề án môn học Kế toán tài chính 11 GVHD: TS Chu Thành
+ Xây dựng hệ thống định mức chi phí khoa học.
+ Quy định cụ thể việc phân loại chi phí.
+ Hoàn thiện các kỹ thuật tính giá thành ước tính và đánh giá sản phẩm dở
dang.
+ Xây dựng các giải pháp xử lý chênh lệch cuối kỳ.
Việc xác định rõ vai trò, mục tiêu, nội dung và phương pháp của KTTC và
KTQT trong kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm không chỉ đáp
ứng thông tin hữu ích cho các đối tượng sử dụng khác nhau đặc biệt là cho các
nhà quản trị doanh nghiệp để hoạch định, kiểm soát quá trình sản xuất nhằm
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, mà còn có tác dụng quan trọng cho
việc giảng dạy kế toán trong nhà trường khi giải quyết mối quan hệ giữa kế
toán tài chính và kế toán quản trị trong vấn đề kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành trong điều kiện hệ thống kế toán doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
vẫn chưa có sự phân định rõ ràng giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị.
II. Kế toán quản trị trong doanh nghiệp Việt nam hiện nay
1. Mục đích
Tại nhiều quốc gia, áp dụng kế toán quản trị trong doanh nghiệp không hề mới,
nhưng tại Việt Nam, kế toán quản trị chỉ thực sự được tìm hiểu vào đầu những năm
90 và được nghiên cứu có hệ thống từ năm 1999. Khảo sát tại các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh cho thấy, đến nay kế toán quản trị chỉ tồn tại dưới hai mô hình.
Với những doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh có hệ thống quản lý chủ yếu
dựa trên nền tảng chuyên môn hoá từng bộ phận hoạt động sản xuất kinh doanh,
từng hoạt động quản lý, thì nội dung kế toán quản trị được xây dựng theo hướng cung


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status