thái độ của học sinh trường trung học cơ sở nghi kim (tp vinh - nghệ an) về vấn đề bạo lực học đường - Pdf 16

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong khóa luận là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nghiên cứu nào khác. Tôi xin chịu hoàn toàn về tính khoa học của công
trình.
Đà Nẵng, ngày tháng 06 năm 2010
Tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Anh
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, em đã nhận được rất nhiều sự giúp
đỡ của các thầy cô giáo và bạn bè.
Trước hết, em xin tỏ lòng biết ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong khoa
Tâm lý – giáo dục đã cung cấp cho em những kiến thức trong 4 năm học qua để
em hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp.
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới cô giáo – Thạc sỹ Phạm Thị Mơ – cô
giáo trực tiếp hướng dẫn đã nhiệt tình dẫn dắt, tận tâm chỉ bảo em trong suốt quá
trình làm đề tài.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, các em học sinh ở trường Trung
Học Cơ Sở Nghi Kim – Thành Phố Vinh – Nghệ An đã giúp đỡ em trong quá
trình điều tra, thu thập dữ liệu thực tiễn.
Cảm ơn các bạn trong lớp đã giúp tôi trong thời gian học tập cũng như chia
sẻ tài liệu, đóng góp ý kiến giúp tôi làm tốt đề tài của mình.
Trong quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi những sai sót, rất mong
được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn để đề tài nghiên cứu được
hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Đà Nẵng, ngày /06/2010
Tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Anh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1.2.3.2. Một số đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THCS …………………32
1.2.3.3. Khái niệm “Thái độ của học sinh THCS đối với vấn đề bạo lực giữa
các học sinh với nhau” ………………………………………… …………….34
1.3. Yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến thái độ của học sinh với vấn đề bạo lực học
đường ………………………………………………………………………… 35
Chương 2. TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu ………………………………………… 40
2.2. Các phương pháp nghiên cứu …………………………………………… 40
2.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi ………………………………… 40
2.2.2. Phương pháp phỏng vấn ……………………………………………….46
2.2.3. Phương pháp quan sát …………………………………………………47
2.2.4. Phương pháp thống kê toán học …………………………………….…47
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thái độ của học sinh trường THCS Nghi Kim đối với vấn đề bạo lực học
đường ………………………………………………………………………… 48
3.1.1. Thái độ của học sinh với vấn đề bạo lực học đường thể hiện ở mặt nhận
thức …………………………………………………………………………….48
3.1.2. Thái độ của học sinh đối với vấn đề bạo lực học đường thể hiện ở mặt
xúc cảm ……………………………………………………………………… 60
3.1.3. Thái độ của học sinh với vấn đề bạo lực học đường thể hiện ở mặt hành
vi ……………………………………………………………………………….66
3.2. Nguyên nhân thực trạng thái độ của học sinh trường THCS Nghi Kim đối
với vấn đề bạo lực học đường ……………………………………
……………….75
3.3. Giải pháp ………………………………………………………………… 78
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận …………………………………………………………………… 80
2. Khuyến nghị …………………………………………………………………81
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC

3.4
Nhận thức của học sinh về nguyên nhân gây ra bạo lực giữa
các học sinh với nhau
52
3.5
Nhận thức của học sinh về nguyên nhân gây ra bạo lực giữa
các học sinh với nhau xét giới tính
55
3.6
Nhận thức của học sinh về hậu quả của bạo lực giữa các học
sinh với nhau
56
3.7
Nhận thức của học sinh về vai trò của gia đình, nhà trường các
tổ chức xã hội trong việc phòng chống bạo lực học đường
58
3.8
Tổng hợp đánh giá nhận thức chung của học sinh đối với vấn
đề bạo lực học đường giữa các học sinh
59
3.9
Cảm xúc của các em học sinh trước tình trạng bạo lực học
đường hiện nay
60
3.10
Cảm xúc của các em học sinh khi chứng kiến hành vi bạo lực
giữa các học sinh
61
3.11
Cảm xúc của các em học sinh khi đặt mình vào vị trí kẻ gây ra

TT Tên biểu đồ Trang
3.1
Đánh giá chung thái độ của học sinh về vấn đề bạo lực giữa
các em học sinh
73
3.2
Tổng hợp thái độ của học sinh về vấn đề bạo lực giữa các em
học sinh thể hiện ở cả 3 mặt : nhận thức, tình cảm, hành vi
74
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”
Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước, là người sẽ góp phần xây dựng
quê hương, đất nước giàu mạnh trong tương lai. Chính vì vậy mà giáo dục luôn là
quốc sách hàng đầu của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, thực tế đáng buồn hiện nay là
tình trạng bạo lực học đường đang ngày một gia tăng. Hiện nay, nó đang là vấn
đề bức thiết và được xã hội quan tâm.
Bạo lực học đường không là một vấn đề mới mẻ nhưng thời gian gần đây
mới bùng phát một cách mạnh mẽ, mức độ và tính chất của hành vi này ngày
càng nguy hiểm. Bạo lực học đường đang trở thành mối lo ngại của ngành giáo
dục, cha mẹ học sinh và toàn xã hội. Nó tác động trực tiếp đến tinh thần, thái độ
học tập của học sinh và việc giảng dạy của các thầy, cô giáo. Nó diễn ra không
chỉ ở thành phố mà còn ở các vùng nông thôn, không chỉ xảy ra ở học sinh nam
mà còn cả học sinh nữ. Thật đau lòng khi bạo lực học đường còn xảy ra ở cả phái
nữ, vốn được mệnh danh là “phái yếu” Có thể nói, đây không phải là vấn đề
của riêng mỗi quốc gia nào mà đã trở thành vấn nạn của toàn cầu.
Thật vậy. Có lẽ chưa có đất nước nào thoát khỏi tình trạng bạo lực học
đường. Bạo lực học đường có dấu hiệu gia tăng mạnh; quy mô, cùng hậu quả của
nó cũng ngày càng nặng nề hơn trước đây rất nhiều lần, đặc biệt là bạo lực xảy ra
giữa các em học sinh với nhau. Đáng sợ hơn, các em còn dám quay lại cảnh mình

Những em chứng kiến những cảnh đó cũng không dám lên tiếng vì sợ hãi hoặc
thờ ơ, vô cảm, không quan tâm, coi đó là chuyện riêng của người khác; thậm chí
có em còn cổ vũ cho những hành động đó. Thái độ sai lệch đó cùng nhận thức
còn kém của các em đã góp phần làm cho hiện tượng bạo lực tăng lên trong thời
gian gần đây.
Thời gian qua, các cấp chính quyền nước ta đã có nhiều giải pháp để ngăn
chặn tình trạng bạo lực học đường song kết quả thu được vẫn chưa cao, công tác
thực hiện vẫn chưa triệt để. Bạo lực học đường đã trở thành vấn đề đáng quan
tâm của toàn xã hội, đòi hỏi các cấp chính quyền cũng như các ban ngành phải có
những biện pháp thích hợp để khắc phục tình trạng trên nhằm thiết lập một môi
trường học đường an toàn, thân thiện cho học sinh, đảm bảo an ninh cho xã hội.
Cũng đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này song chủ yếu mới chỉ đề
cập đến thực trạng bạo lực học đường, một số yếu tố ảnh hưởng tới tình trạng
trên,… mà ít có công trình nào tìm hiểu sâu thái độ của học sinh về vấn đề này.
Tình hình bạo lực học đường và thái độ của học sinh trường THCS Nghi
Kim (TP Vinh - Nghệ An) cũng không nằm ngoài xu thế chung của xã hội.
Từ những lý luận và thực tiễn trên, chứng tôi quyết định lựa chọn đề tài
“Thái độ của học sinh trường trung học cơ sở Nghi Kim (TP Vinh - Nghệ An) về
vấn đề bạo lực học đường”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu thái độ của học sinh trường trung học cơ sở Nghi Kim (TP Vinh -
Nghệ An) về vấn đề bạo lực học đường.
- Đề xuất một số biện pháp tác động nhằm thay đổi thái độ của học sinh theo
chiều hướng tích cực về vấn đề này.
3. Đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu, đối tượng khảo sát
- Đối tượng nghiên cứu: Thái độ của học sinh trường trung học cơ sở Nghi Kim
(TP Vinh - Nghệ An) về vấn đề bạo lực học đường.
- Khách thể nghiên cứu: Học sinh trường trung học cơ sở Nghi Kim (TP Vinh -
Nghệ An)
- Khách thể khảo sát: 300 em học sinh trường trung học cơ sở Nghi Kim (TP

điều tra bằng phương pháp bảng hỏi.
7.4. Phương pháp quan sát
Phương pháp này được sử dụng nhằm bổ trợ cho các phương pháp điều tra
bằng bảng hỏi và phương pháp phỏng vấn trong việc tìm hiểu thái độ của các em
học sinh về vấn đề bạo lực học đường.
7.5. Phương pháp thống kê trong toán học
Để xử lý số liệu thu được, nhằm đưa ra những kết luận chính xác, khách
quan cho đề tài nghiên cứu, tôi sử dụng phương pháp thống kê trong toán học:
tính tỉ lệ % và tính trung bình cộng.
NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 Các nghiên cứu về bạo lực học đường trên thế giới
1.1.1. Nghiên cứu bạo lực học đường ở nước ngoài
- Có lẽ chưa có quốc gia nào “miễn dịch” nạn bạo lực học đường. Theo
thống kế điều tra của Hội Nghiên cứu Harvest (năm 2006) tại Singapore có tới
2800 trên tổng số 4000 em học sinh trả lời mình bị bạo lực trường học. Điều tra
của Hiệp hội Y tế cho biết có đến 10% trẻ em bị bạo lực trường học tại Mỹ. Có
khoảng 30% lứa tuổi teen (5.7 triệu) chịu ảnh hưởng của bạo lực học đường. Có
thể các em bị xúc phạm về thân thể, bị tổn thương do những ngôn từ nặng nề, bị
ám ảnh bởi thái độ lạnh lùng, thờ ơ…. Những vấn đề này đã và đang gióng lên
hồi chuông cảnh tỉnh chúng ta. [9]
-Nhà tâm lý học Na Uy Dan Olweus đã đưa ra chương trình chống bắt nạt
trong trường học. Được áp dụng từ năm 1983, nó tỏ ra hữu hiệu đến mức được
nhiều nước phát triển áp dụng. Số liệu thống kê cho hay, nhờ chương trình này,
số lượng nạn nhân và số lượng “kẻ ăn hiếp” giảm từ 30 – 50%. Đồng thời, cũng
nhờ nó mà tỷ lệ phạm tội trộm cắp, ăn cướp, cưỡng hiếp … trong trẻ vị thành
niên thuyên giảm đáng kể.
- Ở Canada, hệ thống chẩn đoán tâm lý của học sinh đã được thiết lập trong
trường học. Việc này đang được tiến hành ngày một kỹ càng hơn vì kết quả xét
nghiệm độ hung hãn của từng học sinh giúp cho công tác chống bắt nạt trong

trường học. Việc phải đương đầu với bạo lực gia đình, băng đảng và ma tuý để
lại dấu ấn lâu dài trong tính cách của học sinh.[12]
- Theo Trung tâm Thống kê Quốc gia về Giáo dục Mỹ, bạo lực học đường
là một vấn đề nghiêm trọng. Năm 2007, năm gần nhất có dữ liệu tổng thể, một
cuộc điều tra toàn quốc, được tiến hành hai năm một lần bởi Các Trung tâm Ngăn
chặn và Kiểm soát Dịch bệnh (CDC) và có những mẫu đại diện của các học sinh
trung học Hoa Kỳ, thấy rằng 5.9% học sinh mang theo một loại vũ khí (như súng,
dao, vân vân) vào trường học trong 30 ngày trước thời điểm điều tra. Tỷ lệ này ở
nam lớn gấp ba lần nữ. Trong 12 tháng trước cuộc điều tra, 7.8% học sinh trung
học được thông báo đã bị đe doạ hay bị thương tích bởi một vũ khí trong trường
học ít nhất một lần, với tỷ lệ cao trong nam lớn gấp hai lần nữ. Trong 12 tháng
trước cuộc điều tra, 12.4% học sinh từng tham gia vào một vụ đánh nhau tại
trường ít nhất một lần. Tỷ lệ nam cũng cao gấp hai lần nữ. Trong 30 ngày trước
cuộc điều tra, 5.5% học sinh được thông báo bởi họ không cảm thấy an toàn, họ
đã không tới trường ít nhất một ngày. Các tỷ lệ này ở nam và nữ xấp xỉ bằng
nhau. [12]
- Tại Mỹ, nghiên cứu của Hội đồng phòng chống tội phạm quốc gia
(NCPC) khẳng định 43% học sinh cả nam lẫn nữ thuộc độ tuổi từ 13-17 tuổi từng
bị doạ nạt hoặc chế giễu trên Internet.[13]
- Một nghiên cứu do nhà nghiên cứu Mottot Florence thực hiện ở châu Âu,
đăng trên tạp chí Sciences Humaines của Pháp (số tháng 2/2008) khẳng định có
đến 61% nạn nhân của bạo lực học đường có ý định tự tử. Còn theo số liệu của
toà khám nghiệm y lý bang Victoria (Mỹ) năm 2007, có tới 40% nạn nhân các vụ
tự tử từng là đối tượng của nạn bạo lực học đường.[13]
- Trong một nghiên cứu công bố năm 2004, các tác giả James D. Unnever
và Cornell Dewey cho biết có tới 1/4 số trẻ là nạn nhân của bạo lực học đường
không hề nói với bất kỳ ai và 40% không nói với một người lớn nào. Các nghiên
cứu mới được thực hiện ở Mỹ cũng cho thấy khi các vụ bạo lực học đường diễn
ra, các nạn nhân chỉ âm thầm chịu đựng: Có tới 85% các trường hợp không có sự
can thiệp từ bên ngoài, trong khi chỉ có 4% có sự can thiệp của người lớn và 11%

Còn phải kể thêm một yếu tố thúc đẩy hành vi bạo lực học đường, đó là sự cổ vũ
của bạn bè, trong đó có các nam sinh.
Khảo sát này cũng đặc biệt quan tâm tới thái độ của cha mẹ khi con cái có
hành vi bạo lực, bởi điều này có ảnh hưởng quan trọng tới diễn biến tâm lý và
việc điều chỉnh hành vi của các em. Kết quả thật đáng buồn: Có 41,7% các em
nói rằng bị cha mẹ “mắng chửi và đánh”; 9,4% cha mẹ “khuyên bảo nhẹ nhàng”;
6,3% yêu cầu phải “xin lỗi bạn”; và có đến 42,6% nói rằng “cha mẹ không quan
tâm đến hành vi đánh nhau của con gái”.
Những con số này đáng gióng lên hồi chuông báo động về vai trò làm cha
mẹ trong gia đình hiện nay. Chính sự thờ ơ, vô cảm và vô trách nhiệm của nhiều
bậc làm cha làm mẹ đối với con cái, cộng thêm phương pháp giáo dục sai lầm sẽ
là mảnh đất nuôi dưỡng hiện tượng bạo lực phát triển trong học sinh.[14]
- Chiến dịch “Trường học thân thiện“ chống bạo lực đối với trẻ em do tổ
chức phi chính phủ quốc tế Plan đã phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội thực hiện. Chiến dịch được thực hiện từ nay cho tới năm 2011 với mục
đích ngăn ngừa tất cả các hình thức bạo lực đối với trẻ em trong trường học. Mục
tiêu lớn của chiến dịch là đến năm 2011 sẽ có ít nhất 80% trường học trong địa
bàn dự án thiết lập và duy trì được môi trường học tập thân thiện, phi bạo lực với
trẻ em. Sau đó, mô hình hệ thống bảo vệ trẻ em dựa vào cộng đồng sẽ được đưa
vào thử nghiệm tại một số địa bàn dự án.[11]
- Ngày 19/3, Hệ thống giáo dục Hà Nội tổ chức chương trình toạ đàm “Bạo
lực học đường – nguyên nhân - thực trạng và giải pháp” cho phụ huynh và học
sinh của khối THCS. Một trong những nội dung chính của buổi toạ đàm là tìm
hiểu cảm xúc, sự nhận thức về pháp luật, những kiến thức về phòng vệ chính
đáng của học sinh thông qua những đoạn video clip về bạo lực học đường.
Những vấn đề trên sẽ được đặt ra không chỉ với học sinh mà cả giáo viên và phụ
huynh nhằm tìm hiểu tâm lý lứa tuổi để có những phương pháp giáo dục tích cực.
[15]
- Hội thảo chuyên đề “Phòng chống bạo lực trong nhà trường” do Sở GD-
ĐT TP.HCM tổ chức ngày 09/04/2010.[16]

thể, mô tả hiện trạng về tính chất hoặc hành vi bạo lực học đường, xem xét
nguyên nhân và hậu quả của nó. Những nghiên cứu trên góc độ tâm lý học cũng
chỉ ra rằng sự thờ ơ của học sinh, thái độ bàng quan, sự nhận thức còn hạn chế
của các em là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng bạo lực học
đường đang gia tăng hiện nay. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu về thái độ của các em học sinh về vân đề này mặc dù đây là vấn đề
quan trọng, nhất là trên địa bàn trường THCS Nghi Kim – Tp Vinh – Nghệ An.
1.2. Các khái niệm cơ bản sử dụng trong đề tài
1.2.1. Lý luận về thái độ
1.2.1.1. Các thuyết về thái độ
- Thuyết hành động hợp lý: Ajzen và Fishbein phát triển lý thuyết hành
động hợp lý trên cơ sở giả định rằng con nguời thưòng hành xử theo cách nhạy
cảm, tính đến thông tin và thái độ của mình trong hành động.
Trong mô tả này xuất phát từ sự kết hợp hai yếu tố cơ bản: Thứ nhất là thái
độ của cá nhân trái với hành vi hay những quan điểm của họ. Thứ hai là nhận
thức áp lực xã hội của cá nhân phải thực hiện hay không thực hiện hành động,
điều này gọi là tiêu chuẩn chủ quan. Có nghĩa là chúng ta chú ý thực hiện một
hành vi nếu chúng ta đánh giá nó tích cực và thấy rằng hành vi đó đã được xã hội
chấp nhận, ủng hộ, chúng ta thuờng hành động theo những chuẩn mực, tiêu
chuản thuờng có trong xã hội. Những điều này dựa vào kinh nghiệm của bản thân
truớc một sự vật hiện tượng nào đó, trên cơ sở kinh nghiêm gắn kết với hành vi
của chúng ta theo một tình huống cụ thể, từ đó đánh giá hành vi đó là hợp lý hay
không hợp lý, khi đó sẽ hình thành nên thái độ của cá nhân.
Những tiêu chuẩn xã hội này chủ yếu nằm trong một nhóm xã hội cụ thể.
Và khi cá nhân tham gia vào một nhóm xã hội nào đó sẽ cũng thực hiện theo
những tiêu chuẩn, chuẩn mực này.
- Thuyết cân bằng của Heider: Ông cho rằng tìm hiểu nhận thức hay quan
điểm của con người về các mối quan hệ của họ là tiền đề để tìm hiểu các hành vi
xã hội của họ. Theo ông con nguời luôn có mong muốn thái độ của mình sẽ luôn
nhất quán với nhau, do đó nếu nó không nhất quán sẽ gây nên tình trạng mất cân

và giá trị riêng của cá nhân mạnh đến mức tạo ra sự thay đổi hoàn toàn trái ngược
với thái độ theo chủ ý. Mặc dù hầu hết nhũng tác động dội lại là không phổ biến,
chúng ta thường có những khuynh hướng bị những phát biểu rơi vào phạm vi
chấp nhận tác động vì chúng ta đang đồng hóa chúng dễ hơn.
1.2.1.2. Khái niệm thái độ
Thái độ là một hiện tượng tâm lý được nghiên cứu nhiều trong tâm lý học
xã hội, ngay từ năm 1935 trong “sổ tay tâm lý học xã hội” Allport đã cho rằng
“Thái độ có lẽ là khái niệm phân biệt nhất và quan trọng nhất trong tâm lý học
hiện đại xã hội Mỹ”. Nhiều nhà khoa học đã định nghĩa thái độ xã hội thực tế là
khoa học nghiên cứu các thái độ. Có nhiều người cho rằng quan điểm đó là thái
quá. Nhưng thực tế mấy chục năm qua đã chứng minh rằng tuyên bố của Allport
có giá trị dự đoán. Năm mươi năm sau, năm 1985 trong cuốn “sổ tay tâm lý học
xã hội” của tác giả Kiliam McGuire, ông đã tổng kết rằng “Thái độ và sự thay đổi
thái độ vẫn là một trong những đề tài được nghiên cứu nhiều nhất trong tâm lý
học xã hội”.
Người đầu tiên sử dụng khái niệm thái độ như một đặc tính quan trọng của
một vấn đề là Thomas và Znanicki – hai nhà nghiên cứu Mỹ. Trong những
nghiên cứu của mình về thái độ hai ông cho rằng: Thái độ là trạng thái tinh thần
của cá nhân đối với một giá trị.
Allport lại coi nhân cách như là một tổ chức bên trong cơ động, một cái
tôi siêu hình nào đó bao gồm các mục đích, các thái độ được hiện thực hoá bằng
hành vi và tư duy. Năm 1935 ông định nghĩa: “Thái độ là trạng thái sẵn sàng về
mặt tinh thần và thần kinh được tổ chức thông qua kinh nghiệm sử dụng sự điều
chỉnh hoặc ảnh hưởng năng động trong phản ứng của cá nhân với tất cả các
khách thể và tình huống mà nó có mối quan hệ”. “Thái độ là cách phản ứng của
một người theo cách có lợi hoặc bất lợi với các đối tượng và tình huống mà người
đó gặp phải”. Định nghĩa này bao hàm cả nghĩa thái độ là trạng thái sẵn sàng của
tâm thần kinh cho hoạt động tâm lý hoặc sinh lý, thái độ chuẩn bị, định hướng
cho cá nhân với một hoạt động nào đó và thái độ điều chỉnh hành vi của con
người.

được mặt đánh giá của cá nhân với một sự vật hiện tượng nào đó trong cuộc
sống, chính sự đánh giá là tốt hay xấu này quy định thái độ của cá nhân đối với
sự vật hiện tượng đó.
Như vậy các định nghĩa trên của các nhà tâm lý học được diễn đạt bằng
nhiều hình thức khác nhau nhưng đều có chung một điểm là nghiên cứu thái độ
theo quan điểm chức năng thái độ định hướng hành vi ứng xử các vấn đề xã hội.
Ở Việt Nam cũng có những tác giả và tài liệu đề cập đến vấn đề thái độ.
Trong Từ điển Tiếng Việt – Hoàng Phê (chủ biên) cho rằng: “Thái độ là
tổng thể nói chung những biểu hiện ra ngoài (nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động)
của ý nghĩ, tình cảm đối với ai hoặc sự kiện nào đó trước một vấn đề.
Theo từ điển Tâm lý học của Nguyễn Khắc Viện thì trước một đối tượng
nhất định, nhiều người thường có phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó
khăn, đồng tình hay chống đối như đã có sẵn, tri giác về đối tượng cũng như tri
thức bị chi phối về vấn đề thì thái độ gắn liền với tâm thế.
Trong từ điển Tâm lý học (Vũ Dũng chủ biên) thì lại cho rằng: Thái độ là
những phản ứng tức thì tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay chống đối
như đã có sẵn những cơ cấu tâm lý tạo ra định hướng cho việc ứng phó.
Trong Tâm lý học xã hội thái độ là sự sẵn sàng ổn định của cá nhân để
phản ứng lại tình huống gắn liền với một cá nhân đó. Và đối với một số nhà tâm
lý học Việt Nam thái độ thường là biểu hiện của tính cách. Thái độ chính là phản
ứng của con người trước thực tiễn môi trường sống, thái độ đó có thể là tiêu cực
hoặc tích cực tuỳ thuộc vào nhận thức cũng như xúc cảm của cá nhân trước sự
việc đó như thế nào.
Qua đó ta thấy cả trên thế giới và ở Việt Nam có rất nhiều các định nghĩa
khác nhau về thái độ, mỗi định nghĩa thường tiếp cận dưới một góc độ nhưng đều
có những điểm chung nhất định về khái niệm thái độ. Qua việc phân tích khái
niệm của các tác giả về thái độ, nắm bắt được những nội hàm cơ bản trong khái
niệm thái độ, tôi xin rút ra khái niệm thái độ cho đề tài của mình như sau: Thái
độ là trạng thái tinh thần có tính đặc trưng của con người, đó là sự sẵn sàng
phản ứng với một đối tượng nào đó liên quan đến chủ thể và nó được thông qua

thái độ do tác động của môi trường xung quanh để phù hợp hơn.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status