nghiên cứu đánh giá hiệu quả và tính an toàn của hệ động lực sử dụng động cơ bộ mitsubishi làm máy chính trên tàu lưới vây tỉnh bình định - Pdf 20


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG


BÙI XUÂN NAM NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ
HIỆU QUẢ VÀ TÍNH AN TOÀN
CỦA HỆ ĐỘNG LỰC KHI SỬ DỤNG
ĐỘNG CƠ BỘ MITSUBISHI
LÀM MÁY CHÍNH TRÊN
TÀU LƯỚI VÂY TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KỸ THUẬT
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. TRẦN GIA THÁI
Nha Trang-năm 2010 LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên Bùi Xuân Nam, học viên lớp Cao học Kỹ thuật Tàu thủy, niên khóa
2006-2009, xin cam đoan:
Mọi tài liệu, số liệu dùng tính toán, dẫn chứng trong luận văn này là trung thực,
hợp lệ và chính xác, không vi phạm pháp luật.
Nội dung luận văn này do chính bản thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa
học của TS. Trần Gia Thái. Bùi Xuân Nam
MỤC LỤC

Trang
Lời cam đoan I
Lời cảm ơn II
Mục lục III
Mở đầu 1
Chương 1: Đặt vấn đề 6
1.1 Tổng quan về đề tài nghiên cứu 6
1.2 Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 8
1.3 Tình hình khai thác thủy sản và đội tàu Bình Định 11
1.4 Mục đích, phương pháp và giới hạn nội dung 16
Chương 2: Phương pháp đánh giá hiệu quả và tính an toàn
hệ động lực tàu thủy 17
2.1 Phương pháp đánh giá tính an toàn hệ động lực tàu thủy 17
2.1.1 Nhóm các phương pháp giải tích 17
2.1.2 Nhóm phương pháp mô hình 19
2.2 Phương pháp phân tích cây hư hỏng 21
2.2.1 Khả năng sử dụng phương pháp phân tích cây hư hỏng đánh
giá tính an toàn của hệ thống kỹ thuật 21
2.2.2 Những khái niệm cơ bản được sử dụng trong phương pháp 23
2.2.3 Phương pháp xây dựng cây hư hỏng và hàm logic mô tả độ tin cậy 26
2.2.4 Tính xác suất hư hỏng đỉnh 27
2.2.5 Một số ứng dụng thực tiễn của phương pháp phân tích cây hư hỏng 28

4.2 Cải hoán, vận hành, bảo dưỡng hệ thống làm mát 99
4.3 Cải tiến bánh đà 103
Chương 5: Kết luận và đề xuất ý kiến 105
Tài liệu tham khảo 109
Phụ lục 111

1MỞ ĐẦU

Với hơn 3.260 km bờ biển và trên 1 triệu km
2
vùng biển đặc quyền kinh tế, Việt
Nam là một trong những nước có tiềm năng rất lớn về khai thác thủy sản. Trong thực
tế, nghề cá nước ta được đánh giá là ngành kinh tế - kỹ thuật đặc thù với hai ngành
nghề cơ bản hiện nay là khai thác thủy sản và nuôi trồng thủy sản, trong đó ngành khai
thác thủy sản phát triển khá mạnh đem lại công ăn việc làm cho ngư dân địa phương,
góp phần không nhỏ trong công cuộc đổi mới đất nước, phát triển kinh tế và bảo vệ an
ninh quốc phòng trên vùng biển của Việt Nam. Riêng đối với tỉnh Bình Định, một
trong các địa phương nghề cá ở miền Trung có nhiều thuận lợi trong phát triển ngành
khai thác thủy sản với trên 130 km chiều dài bờ biển hướng ra biển Đông, vùng đặc
thù kinh tế biển trải dài từ 13
0
32’ đến 14
0
43’ vĩ độ Bắc, giáp vùng biển hai tỉnh Quảng
Ngãi và Phú Yên. Với đặc điểm địa lý thích hợp như vậy nên khai thác thủy sản chính
là thế mạnh và truyền thống lâu đời của ngư dân Bình Định đã để lại rất nhiều kinh
nghiệm quí báu trong khai thác thủy sản, đặc biệt là các ngành nghề khai thác phổ biến

sản là vấn đề có vai trò và ý nghĩa quan trọng. Thực tế cho thấy, hầu hết tàu đánh bắt
thủy sản hiện nay ở nước ta nói chung và Bình Định nói riêng là tàu vỏ gỗ đóng theo
kinh nghiệm dân gian truyền thống, với chủng loại máy chính lắp trên tàu rất đa dạng
và công suất ngày càng cao. Riêng ở tỉnh Bình Định, máy chính lắp trên đa số tàu
trong thời gian trước đây thường là những động cơ thủy chuyên dụng của các hãng
Yanmar, Daiya v v… có công suất vào khoảng (30 – 70) mã lực với hàng trăm chủng
loại khác nhau. Cùng với sự phát triển đội tàu đánh bắt thủy sản, hầu hết các tàu hiện
nay đều lắp máy công suất lớn của Nhật, Hàn Quốc như Mitsubishi, Hino, Hyundai
v v…, trong đó thông dụng nhất là động cơ Mitsubishi của Nhật, chiếm khoảng 25%
lượng tàu toàn tỉnh và 40% lượng tàu khai thác nghề vây rút chì đang hoạt động. Điểm
đặc biệt là chủng loại máy chính trên tàu lưới vây Bình Định khá đa dạng, nhiều nhất
là động cơ bộ, động cơ lai máy phát điện Mitsubishi đã qua sử dụng. Do giá thành khá
rẻ và phần nào cũng đáp ứng được những yêu cầu của nghề nên việc sử dụng loại động
cơ cũ dạng này để làm máy chính trên các tàu lưới vây bước đầu đã mang lại một số
lợi ích kinh tế trước mắt cho ngư dân địa phương.

3

Tuy nhiên, thực tế sử dụng loại động cơ bộ hiệu Mitsubishi đã qua sử dụng làm
máy chính trên tàu đánh cá nói chung và tàu lưới vây nói riêng ở Bình Định đã xuất
hiện nhiều vấn đề cần phải quan tâm như sau :

 Cơ sở bán chỉ có một số ít chủng loại máy nhất định, không rõ nguồn gốc trong
khi việc mua máy chỉ dựa theo kinh nghiệm hoặc ý kiến người bán, nên việc lựa
chọn một động cơ phù hợp, nhất là động cơ công suất lớn để làm máy chính,
thỏa mãn được các điều kiện về kỹ thuật, kinh tế, xã hội đang là một vấn đề nan
giải đối với ngư dân.
 Nhằm mục đích giảm bớt vốn đầu tư ban đầu, đa số ngư dân đều sử dụng động
cơ bộ cải tiến hoặc động cơ cũ làm máy chính, trong khi kiến thức khai thác
động cơ còn yếu nên có thể gây ra tai nạn rất đáng tiếc.

đó các chuyên gia của Boing Company tiếp tục nghiên cứu, phát triển và ứng dụng nó
trong các lĩnh vực của công ty và họ đã chính thức trở thành những người khai sinh ra
phương pháp này. Đến giữa thập niên 60, công dụng của phương pháp phân tích cây
hư hỏng đã được khẳng định và từ đó đến nay, nó được xem như là một phương pháp
phổ biến trong nghiên cứu khoa học, đã có nhiều ứng dụng trong các lĩnh vực khác
nhau ở Mỹ và các nước phương Tây như ngành hàng không vũ trụ, điện tử, công
nghiệp nguyên tử, hoá chất…[15], [16].
Hiện nay phương pháp phân tích cây hư hỏng là một trong những phương pháp
kỹ thuật quan trọng nhất thuộc lĩnh vực logic và xác suất thống kê mà cơ quan quản lý
hàng không và vũ trụ quốc gia Mỹ (NASA) đã sử dụng trong đánh giá xác suất rủi ro
và độ tin cậy của hệ thống [16]. Theo Dr. Michael Stamatelatos và Mr. Jose’
Caraballo, thì ngay từ rất sớm, vấn đề phân tích mức độ rủi ro và độ tin cậy của phi
thuyền Apollo đã được đặt ra và nghiên cứu; tuy nhiên, chỉ từ sau vụ tai nạn phi
thuyền Challenger 1986, tính chất quan trọng của phương pháp phân tích cây hư hỏng
trong phân tích, đánh giá mức độ rủi ro và độ tin cậy của các hệ thống mới được nhận
thức đầy đủ.
Trong lĩnh vực công nghiệp hạt nhân, người ta cũng bắt đầu áp dụng biện pháp
đánh giá xác suất rủi ro để đánh giá tính an toàn sau vụ tai nạn Three Mile Island vào
năm 1979. Năm 1981, US Nuclear Regulatory Commission (NRC) đã xuất bản cuốn
Fault Tree Handbook, NUREG-0492 nhằm đáp ứng yêu cầu tài liệu cho các khoá đào
tạo về tính an toàn và độ tin cậy của các hệ thống trong lĩnh vực công nghiệp hạt nhân,

5

và tài liệu này đã trở thành tài liệu hướng dẫn kỹ thuật hàng đầu về phương pháp phân
tích cây hư hỏng.
Trong những năm gần đây, đã có nhiều tài liệu viết về phương pháp phân tích
cây hư hỏng; đáng chú ý là các tài liệu trình bày và hướng dẫn việc ứng dụng phương
pháp này vào thực tiễn nghiên cứu như: Fault Tree Handbook with Aerospace
Applications của Michael Stamatelatos và Mr. José Caraballo (August, 2002); Fault

chưa được quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và ứng dụng của nó còn
rất hạn chế trong các lĩnh vực. Đã có một số tài liệu giới thiệu và hướng dẫn về việc
ứng dụng phương pháp phân tích cây hư hỏng trong nghiên cứu, đánh giá tính an toàn
và độ tin cậy của các hệ thống kỹ thuật, nhất là các tài liệu về lý thuyết độ tin cậy, cụ
thể như: tài liệu “ Độ tin cậy trong thiết kế chế tạo máy và hệ cơ khí” của PGS.TS
Nguyễn Doãn Ý – Trường Đại học Bách khoa Hà Nội [15,tr.242-248] giới thiệu khái
quát về cây hư hỏng, các ký hiệu được sử dụng và hướng dẫn trình tự xây dựng một số
mô hình cây hư hỏng; PGS.TS Trần Bách trong sách “Lưới điện và hệ thống điện”,
tập 2(2000) đã trình bày về phương pháp cây hỏng hóc [11, tr.194-201]; TS.Nguyễn
Thạch - Trường Đại học Thuỷ sản Nha Trang với tài liệu “Cơ sở độ tin cậy Động cơ
Diezel tàu thủy” [5,tr.65-68] trình bày các khái niệm, thành phần, những ký hiệu sử
dụng trong cây hư hỏng và nhất là hướng dẫn về phương pháp xây dựng cây hư hỏng,
hàm logic mô tả độ tin cậy và phương trình tổng quát tính xác suất hư hỏng đỉnh.
Về ứng dụng trong nghiên cứu có tác giả NguyễnTrung Hải, đã sử dụng phép
phân tích cây hư hỏng ở trạng thái hỏng và làm việc hiệu suất thấp, qua đó tác giả đã
xác định được các chỉ tiêu độ tin cậy của hệ thống trong luận án tiến sĩ kỹ thuật:
“Đánh giá độ tin cậy của hệ thống động lực các tàu vận tải biển Việt Nam có sử dụng
động cơ 6L350PN bằng phương pháp logic xác suất” [7].
Ngoài ra còn có một số bài viết giới thiệu về ứng dụng của phương pháp này
đăng trên các tạp chí như: Đánh giá tính an toàn của hệ động lực tàu thủy bằng tập mờ
và phân tích cây hư hỏng của TS. Nguyễn Thạch (2005) [6]; phân tích cây hư hỏng và
phương pháp logic xác suất đánh giá độ tin cậy của hệ thống động lực tàu thủy của tác
giả Nguyễn Trung Hải (2004) [8]
Nhìn chung, do tác động của nhiều yếu tố khác nhau nên việc nghiên cứu và vận
dụng phương pháp này vào thực tế khoa họcvà đời sống ở nước ta vẫn còn là điều mới
mẻ và nhiều hạn chế. Mặc dù hiện tại cũng đã có một số tác giả viết về phương pháp
này và một số nhà nghiên cứu sử dụng phương pháp này trong các công trình của mình.

7


đó có huyện Hoài Nhơn và Thành phố Qui Nhơn là hai cửa ngõ quan trọng, có vị trí
rất thuận lợi trong việc xây dựng khu kinh tế mở trong tương lai, đầu tư xây dựng cảng
biển, tạo điều kiện phát triển đội tàu khai thác xa bờ, dài ngày và là nơi phát triển giao
thông đường biển tới các cảng trong khu vực và nước ngoài.

Vùng biển Bình Định đã phát hiện được khoảng trên 500 loại cá khác nhau, trong
đó có 38 loài có giá trị kinh tế cao với trữ lượng hải sản khoảng 60.000 tấn. Trữ lượng
cá nổi vào khoảng 38.000 tấn chiếm tỉ lệ khoảng 65% tổng trữ lượng, khả năng khai
thác 21.000 tấn với các loài cá nổi như cá thu, cá ngừ, cá nục v v Mùa vụ thích hợp

8

để khai thác cá nổi ở Bình Định là từ tháng 3 đến tháng 5, 6. Các loại đối tượng
thường gặp như sau :

- Cá thu từ tháng 3 đến tháng 5 ở ngư trường từ Quy Nhơn đến Đức Phổ (Quảng
Ngãi)
- Cá ngừ chù, ồ từ tháng 3 đến tháng 5
- Cá nục từ tháng 4 ÷ 6 từ Phù Cát đến Quy Nhơn và từ Phù Mỹ trở ra.
- Cá trích từ tháng 6 đến tháng 8 ở vùng biển Quy Nhơn.
- Cá cơm sản lượng cao từ tháng 3 đến tháng 5, từ Phù Cát đến Quy Nhơn.
- Cá chuồn từ tháng 2 ÷ 3, cá chuồn khơi, tháng 4 ÷ 6 cá chuồn lộng.
- Cá ngừ đại dương vụ chính từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau, vụ phụ
từ tháng 4 đến tháng 8, ngư trường từ vùng khơi Bình Định đến vùng khơi Đà
Nẵng.
- Trữ lượng mực (1500÷2000) tấn, khả năng khai thác (800÷1000) tấn/năm

Theo các số liệu điều tra của ngành thủy sản, trữ lượng cá đáy ở vùng biển Bình
Định vào khoảng 22.000 tấn, nguồn lợi thủy hải sản ở tầng đáy bao gồm nhiều loài cá
đáy, nhuyễn thể, giáp xác có giá trị kinh tế và thương mại khá cao. Cá đáy bao gồm


Bình quân công suất
(mã lực /chiếc)
33,67 34,53 36,28 39,12 51,10

Tính đến ngày 31/12/2008, toàn tỉnh có 6.280 chiếc/321.462 mã lực (loại có công
suất trên 20 mã lực) phân bố tập trung trên bốn địa phương trọng điểm là thành phố
Qui Nhơn, huyện Hoài Nhơn, huyện Phù Cát và huyện Phù Mỹ. Hiện tại, tất cả các tàu
thuyền làm nghề đánh cá của tỉnh đều là vỏ gỗ, trong đó có một số ít bọc Composite,
với chiều dài thiết kế từ 20 m trở xuống. Các nghề khai thác chính của Bình Định là
câu, lưới mành, lưới kéo, vây và rê. Các nghề khác chiếm tỷ lệ rất nhỏ cả về số lượng
tàu và sản lượng khai thác. Bảng 1.2 trình bày các số liệu phân loại tàu thuyền theo
nghề khai thác và theo từng địa phương.

Bảng 1.2 : Số lượng tàu khai thác hải sản theo nghề (chiếc) tính đến 31/12/2008

Ngành nghề
Địa
phương
Nghề
Câu
Lưới Vây

Lưới

Lưới
Kéo
Nghề
khác
Tổng

Tổng công suất máy chính (mã lực) 24576

37387

54375

74820 95912

Bình quân công suất (mã lực /chiếc)

96 109 125 145 152

Bảng 1.4 : Tàu thuyền khai thác hải sản xa bờ (chiếc) theo nghề đến 31/12/2008.

Nghề khai thác
Địa
phương
Nghề
Câu
Lưới
Vây
Lưới

Lưới
Kéo
Tổng
cộng
Thành phố Qui Nhơn 25 40 2 15 82
Huyện Phù Cát 9 48 1 0 58
Huyện Phù Mỹ 7 129 8 5 149

năng phát triển mạnh trong thời gian sắp tới. Những cải tiến mới trong nghề vây khơi
Bình Định đã và đang phát huy hiệu quả và trong tương lai, lưới vây vẫn là một trong
những nghề khai thác chủ lực của ngư dân, góp phần thúc đẩy sự phát triển nghề khai
thác thủy sản của tỉnh nhà. 12

1.4.MỤC ĐÍCH, PHƯƠNG PHÁP VÀ GIỚI HẠN NỘI DUNG

Như đã trình bày, nội dung luận văn nhằm mục đích đánh giá hiệu quả và tính an
toàn của việc sử dụng các động cơ bộ cũ làm máy chính trên tàu lưới vây ở Bình Định.
Về mặt lý thuyết, có thể giải quyết vấn đề đặt ra bằng cách sử dụng phương pháp đánh
giá độ tin cậy, kết hợp với các số liệu thông kê thực tế tình hình khai thác các động cơ
bộ đã qua sử dụng làm máy chính trên các tàu lưới vây ở Bình Định để tính các chỉ
tiêu về tính an toàn cần thiết và dựa trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp kỹ thuật phù
hợp nhằm nâng cao tính an toàn và hiệu quả sử dụng tàu.
Với cách đặt vấn đề như thế, luận văn tập trung nghiên cứu các nội dung như sau:
 Nghiên cứu lựa chọn phương pháp đánh giá độ tin cậy phù hợp dùng nghiên
cứu đánh giá tính an toàn trong quá trình khai thác hệ động lực tàu thủy nói
chung và động cơ chính tàu thủy nói riêng.
 Xây dựng phương pháp và tiến hành thu thập số liệu thống kê thực tiễn đối
với hệ động lực các tàu lưới vây ở Bình Định có sử dụng động cơ Mitsubishi
làm máy chính nhằm phục vụ việc nghiên cứu vấn đề đặt ra.
 Đánh giá hiệu quả sử dụng động cơ bộ Mitsubishi làm máy chính trên tàu lưới
vây Bình Định.
 Đánh giá tính an toàn và đề xuất các giải pháp kỹ thuật nhằm nâng cao tính an
toàn và hiệu quả khai thác đối với các tàu lưới vây Bình Định có sử dụng
động cơ bộ đã qua sử dụng làm máy chính.
Xuất phát từ tình hình thực tế ở Bình Định hiện nay, luận văn chỉ tập trung

pháp này còn được gọi bằng tên khác là phương pháp lập bảng. Phương pháp này có
khối lượng tính toán tăng rất nhanh theo số lượng phần tử n, nhưng có thể khắc phục
được nhược điểm này bằng cách lập trình trên máy tính. Tuy nhiên khi sử dụng
phương pháp này đánh giá khả năng làm việc hay hư hỏng của hệ thống, phải kết hợp
với mô hình kiểm tra khả năng hệ thống nên vấn đề sẽ trở nên phức tạp hơn nên
thường chỉ áp dụng cho hệ thống đơn giản, ít phần tử.

2.Phương pháp phân tích theo phần tử

Theo phương pháp này, độ tin cậy của hệ thống phức tạp có thể xác định bằng
cách phân tích sơ đồ theo một phần tử k nào đó, thường là một trong số các phần tử tạo
nên liên hệ ngang trong sơ đồ.

14

3.Phương pháp logic xác suất

Phương pháp sử dụng các mô hình đường, lát cắt và phép phân tích logic để đánh
giá xác suất làm việc tin cậy hoặc là hư hỏng của một hệ thống phức tạp. Theo phương
pháp này, cấu trúc hệ thống được mô hình hóa bằng toán logic và bao gồm các giai
đoạn chính sau :

 Xây dựng sơ đồ tính tương đương về độ tin cậy của hệ thống nghiên cứu.
 Từ sơ đồ tính tương đương, tiens hành xây dựng đồ thị G (X,A) tương ứng để
nghiên cứu độ tin cậy.
 Vẽ đồ thị xác định tập hợp đường hoặc lát cắt tương ứng trong đồ thị.
 Xây dựng đồ thị đẳng trị đối với đường hoặc lát cắt ở dạng các hệ thống song
song nối tiếp.
 Tính toán xác suất làm việc tin cậy hoặc hư hỏng của hệ thống trên cơ sở sơ đồ
đường đẳng trị đường và lát cắt.


2.Mô hình toán học:

Phương pháp được sử dụng để nghiên cứu độ tin cậy của hệ thống phức tạp, xây
dựng trên cơ sở mô tả các quá trình nghiên cứu bằng phương trình toán học, sau đó tìm
cách giải các bài toán để xác định các thông số cần tìm của quá trình. Mô hình toán thử
nghiệm thống kê, hay còn gọi là phương pháp Monte – Carlo dùng đánh giá độ tin cậy
trên cơ sở tiến hành nhiều loạt thử nghiệm độ tin cậy của các phần tử, qua một số ngẫu
nhiên đặc trưng cho xác suất làm việc của nó. Ưu điểm của phương pháp này là một số
biểu thức toán nghiệm đúng cho nhiều quá trình có bản chất vật lý khác nhau nên đối
tượng nghiên cứu có thể rất rộng, không hạn chế khối lượng thực nghiệm, chi phí thấp,
ít tốn thời gian và có độ chính xác cao hơn phương pháp mô hình tương tự, tuy nhiên
không thể sử dụng phương pháp cho quá trình nghiên cứu chưa được mô tả bằng biểu
thức toán học.

3.Mô hình lai

Đây là mô hình kết hợp các ưu điểm của cả hai mô hình đã nêu ở phần trên bằng
cách dùng ưu điểm của mô hình này bổ sung nhược điểm của mô hình kia, thường
dùng để nghiên cứu quá trình quá độ của hệ thống, trong đó một số khâu chế tạo như
mô hình tương tự, một số khâu mô tả dưới dạng phương trình toán.

16

Từ các trình bày trên nhận thấy, các phương pháp tính độ tin cậy nói chung và
tính an toàn nói riêng đều có ưu nhược điểm và phạm vi áp dụng khác nhau. Tuy nhiên
khi áp dụng vào việc đánh giá tính an toàn của hệ động lực tàu thủy, có thể rút ra một
số nhận xét sau :

 Hệ động lực tàu thủy nói chung và của tàu lưới vây Bình Định nói riêng là hệ

toàn của hệ thống kỹ thuật [3], [5], [7], [15], [16].

Phương pháp phân tích cây hư hỏng xuất hiện từ năm 60 của thế kỷ 20, được
Mỹ và các nước phương Tây sử dụng để đánh giá tính an toàn và độ tin cậy ở rất nhiều
ngành như hàng không, vũ trụ, điện tử, công nghiệp, hóa chất v v… Trong thời gian
gần đây, đã có nhiều tài liệu hướng dẫn ứng dụng phương pháp vào thực tiễn nghiên
cứu như Fault Tree Handbook with Aerospace Applications của các tác giả
Dr.Michael Stamatelatos và José Caraballo (August, 2002)[16], tài liệu Fault Tree
Analysis and Formal Methods for Requirements Engineering của Jianwen Xiang
(2005)[15] v v trong đó tác giả đã giới thiệu và hướng dẫn nguyên tắc, cách thức,
các bước tiến hành để xây dựng và phân tích cây hư hỏng. Phương pháp phân tích cây
hư hỏng đã được áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau như trong phân tích, đánh
giá mức độ rủi ro và đưa ra các chỉ dẫn về vấn đề an toàn sức khỏe và sử dụng thuốc
(The IEE, Health and Safety Briefing), phân tích những lỗi xuất hiện trong quá trình
truy cập các trang Web trên mạng của các tác giả Chin Wen Cheong và Amy Lim Hui
Lan (Malaysia, 2004)[14]… Từ khi xuất hiện cho đến hiện nay, phương pháp phân
tích cây hư hỏng đã có những bước phát triển rất nhanh chóng và đã được ứng dụng
ngày càng rộng rãi trong thực tiễn nghiên cứu khoa học, sản xuất cũng như trong đời
sống xã hội.

Riêng ở Việt Nam, phương pháp phân tích cây hư hỏng tuy còn mới mẻ, nhưng
cũng đã có khá nhiều tài liệu trình bày việc ứng dụng phương pháp này trong nghiên
cứu, đánh giá tính an toàn và độ tin cậy của các hệ thống kỹ thuật như tài liệu Độ tin
cậy trong thiết kế chế tạo máy và hệ cơ khí [3, tr.242 - 248] của PGS.TS Nguyễn Doãn
Ý thuộc Trường Đại học Bách khoa Hà Nội hoặc là tài liệu Lưới điện và hệ thống lưới
điện [11, tr.194-201] của PGS.TS Trần Bách. Còn ứng dụng phương pháp phân tích
cây hư hỏng trong nghiên cứu khoa học và phải nói tới tác giả Nguyễn Trung Hải - sử
dụng phép phân tích cây hư hỏng ở trạng thái hỏng và làm việc hiệu suất thấp để xác

18


19

2.2.2. Những khái niệm cơ bản được sử dụng trong phương pháp phân tích cây
hư hỏng

Để sử dụng phương pháp cây hư hỏng trong phân tích, đánh giá độ tin cậy trước
tiên cần thống nhất một số khái niệm cơ bản dùng trong phương pháp này, cụ thể như
sau :

1.Hư hỏng đỉnh

Hư hỏng đỉnh là hư hỏng cuối cùng của hệ thống đang xét.

2.Hư hỏng trung gian

Hư hỏng trung gian được hiểu là dạng hư hỏng do một hư hỏng khác tạo ra, có
thể là hư hỏng cơ bản hoặc hư hỏng trung gian thứ cấp, đồng thời nó lại là nguyên
nhân gây ra những hư hỏng khác của hư hỏng trung gian cấp cao hơn hoặc là trực tiếp
của hư hỏng đỉnh.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status