Khu vực mậu dịch tư do ASEAN-Trung quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam - Pdf 23

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Lời nói đầu
Trong những năm 1990, tốc độ toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh tế đã nhanh
chóng trở thành một hiện tợng gây ra sự lo ngại rộng rãi trong nền kinh tế thế giới.
Đây là những đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển của xã hội loài ngời trong thế
kỷ 20, một xu hớng không thể đảo ngợc vào thế kỷ 21. Những đặc điểm này dẫn tới
những mối quan hệ gần gũi hơn giữa tất cả các nớc và khu vực cũng nh sự phụ thuộc
lẫn nhau và cạnh tranh lớn hơn trên quy mô toàn cầu. Vì vậy, liệu một nớc có thể duy
trì đợc tăng trởng kinh tế liên tục và lành mạnh hay không đợc quyết định bởi việc nớc
này có thể đối phó lại với xu hớng phát triển kinh tế thế giới đúng lúc và điều chỉnh h-
ớng phát triển của mình.
Trong bối cảnh sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau ngày càng sâu sắc ở tầm khu vực
và toàn cầu và việc các nớc ASEAN đã gần thực hiện xong Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA), câu hỏi đặt ra là liệu ASEAN sẽ đi theo định hớng hội nhập khu vực
nào sau AFTA. Trong khi đó, mối quan hệ hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc ngày
càng phát triển, việc Trung Quốc gia nhập WTO, những gần gũi về địa lý và văn hoá
giữa ASEAN và Trung Quốc, thì sự lựa chọn thiết lập một Khu vực mậu dịch tự do
giữa ASEAN và Trung Quốc ACFTA (ASEAN China Free Trade Area) có thể là
một câu trả lời về một trong những định hớng hợp tác phát triển kinh tế tiếp theo của
ASEAN.
Thật vậy, ASEAN và Trung Quốc là những nớc đang phát triển và đang ở những
giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau song cùng đang phải đối mặt với những cơ hội
và thách thức trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Việc thành lập một hiệp
định thơng mại tự do và tăng cờng quan hệ song phơng là một quyết định sáng suốt
của hai bên trong quá trình theo đuổi những cơ hội phát triển mới. Trong bối cảnh kinh
tế toàn cầu tăng trởng chậm lại và nhiều năm suy thoái của cờng quốc kinh tế khu vực
Nhật Bản, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ đặc biệt có lợi đối với
tiềm năng tăng trởng kinh tế của hai bên. Hơn nữa, điều này sẽ tạo ra một cơ chế quan
trọng nhằm bảo đảm sự ổn định kinh tế ở khu vực và cho phép ASEAN và Trung Quốc
có tiếng nói lớn hơn trong các vấn đề thơng mại quốc tế. Bên cạnh những cơ hội đó,
việc thiết lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc trong vòng 10 năm tới

cơ hội và thách thức đối với các nớc thành viên, đặc biệt là đối với Việt Nam, một khi
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đợc thành lập, từ đó đa ra một số đề
xuất để tăng cờng sự hội nhập của Việt Nam vào Khu vực mậu dịch tự do này.
Tuy vậy, do tính mới mẻ của đề tài cũng nh những hạn chế về thời gian, kiến
thức và tài liệu nghiên cứu, khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất
mong nhận đợc ý kiến đóng góp của của các thầy cô và các bạn. Qua đây, em xin gửi
lời cảm ơn chân thành đến cô giáo, Tiến sĩ Vũ Thị Kim Oanh, đã hớng dẫn và chỉ bảo
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 2 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
tận tình cho em trong suốt thời gian thực hiện khoá luận. Em cũng xin gửi lời cảm ơn
đến các cô, chú và anh, chị đang công tác tại Vụ hợp tác kinh tế đa phơng (Bộ Ngoại
giao), Trung tâm thông tin Bộ Kế hoạch và Đầu t, Trung tâm thông tin t liệu thuộc
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ơng (CIEM), và Trung tâm nghiên cứu Trung
Quốc đã giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Hà nội, tháng 12/ 2003
Sinh viên
Đinh Thị Việt Thu
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 3 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Chơng 1: Quá trình hình thành khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc
(ACFTA)
1.1. Những nhân tố thúc đẩy sự hình thành ACFTA
1.1.1. Sự phát triển mạnh mẽ của các khu vực mậu dịch tự do
(FTA) trên toàn cầu
Nền kinh tế thế giới đã trải qua sự biến đổi cha từng thấy trong nửa cuối những
năm 1990. Đặc biệt, các hoạt động của các tập đoàn đã đợc toàn cầu hoá mạnh mẽ
thông qua đầu t trực tiếp nớc ngoài (FDI), sự sáp nhập và mua lại (M&As) xuyên biên
giới và thông qua các kênh giao dịch quốc tế khác nhau. Cùng với cuộc cách mạng
công nghệ thông tin, luật chơi mới về cạnh tranh đã đợc thiết lập ở các lĩnh vực nh

cũng bắt đầu thơng thảo để ký FTA với Liên hiệp quan thuế miền nam châu Phi (gồm
các nớc Nam Phi, Boswana, Lesotho, Namibia và Swaziland). Ngoài ra, Mỹ cũng đang
xem xét khả năng ký kết FTA với Colombia và Bahrain (xem bảng 1).
Bảng : Các khu mậu dịch tự do lớn của 1 số nớc
Các khu mậu dịch tự do đã ký kết
Singapore Mehico Chile Mỹ EC/ EU *
New Zealand,
Nhật Bản,
EFTA
Mỹ và Canada
(NAFTA), EU,
EFTA, Chile,
Israel, Các nớc
thuộc khối tam
giác phía bắc
(El Salvador,
Honduras,
Nicaragoa),
Dominica,
Nicaragoa,
Costa Rica,
Bolivia, G3.
Canada, Mehico,
Trung Mỹ (Costa Rica,
El Salvador, Honduras,
Guatamela, Nicaragoa),
Venezuela, Columbia,
Equdor, MERCOSUR,
Peru, Bolivia
Canada và

Columbia, Peru,
Venezuela)
Các khu mậu dịch tự do đang ở giai đoạn đề xuất
Chile, EU, Hàn
Quốc, Pacific 5
Nhật, New
Zealand
Nhật, Singapore,
Pacific 5
Pacific 5
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 5 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Nguồn: Bộ Kinh tế, Thơng mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI), 2001,
http://www.meti.go.jp/policy/trade-policy/epa/html.
Theo Sách trắng về thơng mại quốc tế của JETRO (Tổ chức xúc tiến thơng mại
Nhật Bản), cho đến tháng 5/ 2003 đã có khoảng 250 hiệp định mậu dịch tự do (FTA)
song phơng và khu vực đã đợc thông báo cho GATT/ WTO, trong đó có 130 hiệp định
đợc thông báo sau tháng 1/ 1995. Khoảng trên 170 FTA đang có hiệu lực và 70 FTA
khác đã có hiệu lực mặc dù cha đợc thông báo cho WTO. Dự kiến đến cuối năm 2005,
sẽ có 300 hiệp định mậu dịch tự do song phơng và khu vực có hiệu lực [2]. Chính tổng
giám đốc WTO Sapuchai Panitchpakdhi cũng phải thừa nhận xu thế đàm phán hiệp
định mậu dịch tự do song phơng và khu vực đã trở nên phổ biến, và nghi ngại rằng xu
thế này có thể phá vỡ các hoạt động đa phơng trong khuôn khổ WTO [3].
ở khu vực Đông á, tính đến tháng 12/ 2002 chỉ có 4 khu vực nh vậy đợc ký kết
(tham khảo Phụ lục 1), nhng điều cần nói là xu hớng này mới chỉ xuất hiện ở Đông á
từ năm 1999. Vào cuối năm 1998, Hàn Quốc đã đề nghị Nhật Bản nghiên cứu khả
năng thành lập khu vực mậu dịch tự do giữa hai nớc. Tháng 9/ 1999, Singapore đã nhất
trí với New Zealand về việc bắt đầu đàm phán thành lập khu vực mậu dịch tự do, nớc
này cũng đa ra đề nghị tơng tự đối với các nớc Chile, Mehico và Hàn Quốc. Tháng 10
năm đó, Singapore đã đa ra đề nghị thiết lập quan hệ giữa Khu vực mậu dịch tự do

nớc có nhiều cơ hội để lựa chọn đối tác thích hợp.
Thứ hai, mức độ điều chỉnh của các FTA sâu rộng hơn rất nhiều so với WTO,
với những u đãi cao nhất, tạo điều kiện thuận lợi tiến tới tự do hoá tối đa và triệt tiêu
hoàn toàn những trở ngại đối với thơng mại hàng hoá, dịch vụ, đầu t, đặc biệt là vấn đề
triệt tiêu thuế suất nhập khẩu xuống 0% và các u đãi mở cửa thị trờng đầu t. Ngoài ra,
bản chất của các FTA không chỉ đơn thuần là việc tự do hoá thơng mại, mà còn bao
gồm cả việc hợp tác trong tất cả các lĩnh vực ngoài thơng mại, ví dụ: hợp tác trong lĩnh
vực phát triển nguồn nhân lực, hợp tác trong việc phát triển công nghệ thông tin, đơn
giản hoá thủ tục hải quan, xúc tiến thơng mại và đầu t, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, Nói cách khác, do hầu hết các FTA, đặc biệt là những FTA mới đ ợc ký kết
gần đây, đã đa dạng hoá nội dung bên cạnh nội dung loại bỏ thuế quan và tự do hoá
khu vực dịch vụ nên mỗi khi con đờng đa phơng bị tắc nghẽn hay cản trở, các nớc liền
tìm đến những dàn xếp song phơng hay khu vực.
Tuy nhiên, nói nh vậy không có nghĩa là các FTA luôn đi ngợc lại với tiến trình
của các vòng đàm phán đa phơng, bởi cho đến nay vẫn cha có nghiên cứu nào chứng
minh đợc các Khu vực mậu dịch tự do hỗ trợ hay ngăn cản tự do hoá thơng mại trên
phạm vi toàn cầu. Nhng có thể thấy thành viên của hai khối mậu dịch tự do lớn nhất là
EU và NAFTA đều là thành viên của WTO mà nguyên tắc cơ bản của tổ chức này là
tối huệ quốc (không phân biệt đối xử) đợc nêu rõ ở điều khoản I, nên khả năng các
FTA ngăn cản tiến trình tự do hoá toàn cầu là khó xảy ra.
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 7 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Thật vậy, tuy GATT và WTO đề cao nguyên tắc không phân biệt đối xử trong
ngoại thơng nhng vẫn có những điều khoản cụ thể cho phép các thành viên tham gia
FTA, với điều kiện phải thông báo về những FTA đó. Điều 24 của GATT quy định về
việc thành lập và hoạt động của FTA và liên hiệp thuế quan đối với trao đổi hàng hoá.
Điều 5 của GATS (Hiệp định chung về thơng mại và dịch vụ) cho phép lập các FTA về
trao đổi dịch vụ. Ngoài ra còn có một điều khoản đặc biệt cho phép ký kết FTA về trao
đổi hàng hoá giữa các thành viên là nớc đang phát triển. Các quy định này có thể
không bắt buộc trong các vụ giải quyết tranh chấp nhng có tác dụng nh là nguyên tắc

đi thế đàm phán trong các cuộc đàm phán đa phơng, bỏ lỡ các cơ hội hởng lợi từ bên
ngoài và sự chậm trễ nói chung trong việc sử dụng hiệu quả làn sóng toàn cầu hoá.
Mehico, Chile và Singapore muốn rằng họ trở thành trung tâm mạng lới FTA và hởng
lợi ích của sự kết nối. Một nớc trung tâm có các lợi thế tiềm năng đối với các nớc khác
ở đầu bên kia trong việc hình thành các luồng thơng mại và mạng lới sản xuất thông
qua FDI. Một tài sản quan trọng của các thoả thuận FTA trong bối cảnh này là một n-
ớc (ví dụ Mehico) có thể ký kết một FTA mới (ví dụ với EU) mà không cần thay đổi
bất cứ thoả thuận FTA cũ nào (ví dụ NAFTA).
Nói tóm lại, chính do những lợi điểm kể trên mà việc mở rộng liên kết, thiết lập
các Khu vực mậu dịch tự do đã trở thành hớng đi đợc các nớc chú trọng nhằm khai
thác tốt nhất lợi thế so sánh của từng quốc gia, tạo ra sân chơi hấp dẫn đầy tiềm năng
đáp ứng lợi ích của tất cả các bên có liên quan.
Tuy vậy, các FTA cũng đặt ra 1 số vấn đề đáng quan tâm:
Thứ nhất, các chính phủ hiện theo đuổi FTA nh là 1 công cụ trong chính sách
thơng mại gồm nhiều tầng nấc đan xen nhau, gồm cả song phơng, khu vực và đa ph-
ơng. Đối với từng chính phủ, chính sách này đòi hỏi rất nhiều nguồn lực, kể cả con ng-
ời và vật chất, do đó có thể trở thành gánh nặng, nhất là đối với các nớc đang phát
triển; còn đối với WTO, quá nhiều FTA mà không có sự điều phối thoả đáng thì điều
này có thể đe dọa sẽ làm đổ vỡ tiến trình Doha. Chính vì vậy, Tổng giám đốc WTO,
Tiến sĩ Sapuchai Panitchpakdhi, đã phải thừa nhận rằng: FTA là con dao hai lỡi và là
nguyên nhân làm chậm tiến trình toàn cầu hoá [4].
Thứ hai, hầu nh tất cả các FTA hình thành trong thời gian gần đây đều có nội
dung toàn diện, không chỉ giải quyết các rào cản tại biên giới quốc gia nh các FTA
truyền thống mà còn bao trùm các lĩnh vực dịch vụ và sở hữu trí tuệ, đặc biệt cả đầu t
và thơng mại điện tử, là những lĩnh vực ch a có quy định quốc tế chung. Câu hỏi đặt
ra là liệu các cam kết mang tính ràng buộc trong những lĩnh vực mới đó có thật sự phù
hợp và thuận lợi, hay trên thực tế chúng lại đặt ra những rào cản mới cho các nớc bên
ngoài và tác động tiêu cực đến tiến trình đàm phán đa phơng về các lĩnh vực này.
Ngoài ra, còn phải kể đến những vấn đề truyền thống đặt ra cho FTA nói chung, nhất
là về khả năng tác động giảm bớt thơng mại của các nớc không tham gia FTA.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Tăng trởng kinh tế đã từng là thành
tích đầy ấn tợng của Trung Quốc và phần lớn các nớc ASEAN trong 3 thập kỷ vừa
qua. Cả Trung Quốc và ASEAN đều theo đuổi chiến lợc tăng trởng hớng về xuất khẩu
và đã đạt đợc các tỷ lệ tăng trởng cao hơn nhiều tỷ lệ trung bình của thế giới.
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 10 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Kể từ khi mở cửa ra bên ngoài, tăng trởng kinh tế của Trung Quốc đạt hơn 10%
hàng năm. Vào những năm 90, Trung Quốc tăng trởng ở mức cao nhất trên thế giới.
Tổng tiết kiệm nội địa và tổng đầu t trong thập kỷ cuối đạt lần lợt hơn 40% và 34%
GDP. Thành tích trong khu vực đối ngoại cũng rất gây ấn tợng, xuất khẩu tăng ở mức
trung bình hàng năm hơn 15%, dự trữ quốc tế của Trung Quốc năm 1997 đạt hơn mức
nhập khẩu tơng đơng của 12 tháng. Vốn nớc ngoài chủ yếu là đầu t trực tiếp nớc
ngoài, đã tăng 275 lần trong giai đoạn từ năm 1983 đến 1986 [5]. Thâm hụt ngân sách
và tỷ lệ lạm phát khá cao trong nửa đầu những năm 90 do sự thịnh vợng kinh tế, đã
dần hạ xuống từ năm 1996. Các yếu tố vĩ mô cơ bản (xem bảng 2), cùng với việc
không quy đổi của đồng tiền đã lý giải tại sao Trung Quốc không bị tác động trực tiếp
của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997 giống nh các nớc châu á khác.
Bảng : Một vài chỉ số kinh tế vĩ mô của Trung Quốc
Đơn vị: %
Tỷ lệ tăng
trởng
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998*
GDP thực 3.84 9.19 14.24 13.49 12.66 10.55 9.54 8.80 7.80
Lạm phát 3.06 3.54 6.34 14.60 24.20 16.90 8.30 2.80 -0.90
Xuất khẩu 19.20 14.36 18.07 8.76 35.56 24.91 17.93 20.91
Nhập khẩu -13.28 18.47 28.32 34.06 10.38 15.52 19.52 3.73
*: cho đến tháng 11/ 1998
Nguồn: J.Lim, Tăng trởng kinh tế của Trung Quốc và hệ luỵ của nó đối với ASEAN Báo
cáo nghiên cứu của Hệ thống các trung tâm nghiên cứu APEC của Philippines (PASCN), 2001.
Từ bảng trên có thể thấy tốc độ tăng trởng GDP của Trung Quốc tăng khá đều

8.7
17.6
30.0
Sản lượng
lương thực
GDP FDI Xuất khẩu Dự trữ
ngoại tệ
Nguồn: Cục Thống kê Trung Quốc (NBS) [8].
Từ biểu đồ trên có thể thấy, mức tăng trởng kinh tế Trung Quốc năm 2002 đạt
8%, cao hơn so với mức dự báo đầu năm là 7% và mức tăng 7.3% của năm 2001. Đặc
điểm của sự tăng trởng kinh tế Trung Quốc năm 2002 là mức tăng trởng GDP theo quý
khá đều đặn: quý I tăng 7.6%; quý II tăng 8%; quý III tăng 8.1%. Tổng GDP trong cả
năm đạt 10,000 tỷ NDT, tơng đơng 1,248 tỷ USD [8].
Cùng với sự tăng trởng của GDP, kim ngạch ngoại thơng của Trung Quốc năm
2002 cũng tăng gấp khoảng 30 lần so với cách đây 24 năm, khi nớc này bắt đầu cải
cách và mở cửa. Năm 1978, kim ngạch ngoại thơng của Trung Quốc đạt 20.6 tỷ USD,
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 12 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
đứng thứ 32 trong danh sách ngoại thơng toàn cầu. Năm 2001, với 509.8 tỷ USD,
Trung Quốc trở thành nớc buôn bán lớn thứ 6 trên thế giới. Sau một năm gia nhập
WTO, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc năm 2002 tăng 22.3% so với năm trớc,
đạt 325.57 tỷ USD, lần đầu tiên vợt ngỡng 300 tỷ USD. Tổng kim ngạch ngoại thơng
năm 2002 đạt 620.79 tỷ USD, tăng 17.6%, xếp hàng thứ 5 thế giới; trong đó thặng d
mậu dịch là 30.35 tỷ USD, tăng 34.6 %, mức cao nhất trong 4 năm qua [9].
Thu hút vốn FDI tăng bình quân 14.2%/ năm, liên tục 9 năm liền đứng hàng
đầu các nớc đang phát triển, đã có 400 trên tổng số 500 công ty hàng đầu thế giới đặt
cơ sở tại Trung Quốc [7]. Trong những năm 1980, FDI vào Trung Quốc chỉ là 2 3
tỷ USD/ năm. FDI chỉ bắt đầu tăng mạnh từ những năm 1992 1993, Trung Quốc trở
thành nớc tiếp nhận FDI lớn nhất trong số các nớc đang phát triển (tham khảo Phụ lục
3). Năm 2002, đầu t trực tiếp nớc ngoài tăng 8.7%, lần đầu tiên vợt Mỹ, đạt mức kỷ

ban đầu hoài nghi chủ trơng Nhất trí trớc, đàm phán sau (AFTA Agree first, Talk
after) sẽ có hiệu quả; chỉ có ít ngời hy vọng vào thành công của AFTA.
Tuy nhiên, trong thập kỷ qua, AFTA đã chứng tỏ rằng, tuy khởi đầu uể oải,
song nó đã có thể và sẵn sàng thích nghi với nền kinh tế thế giới đang thay đổi liên tục
cũng nh những tình huống nội bộ. AFTA trớc tiên đã thay đổi tốc độ sau hai diễn biến
quan trọng bên ngoài: việc ký kết Thoả thuận chung về thuế quan và các vòng đàm
phán mậu dịch Uragoay năm 1993 và Tuyên bố Bogor năm 1994 về cam kết tự do hoá
thơng mại và đầu t của các nớc thành viên APEC, lần lợt vào năm 2010 và 2020, cho
các nền kinh tế phát triển và đang phát triển. ASEAN đã đẩy nhanh mục tiêu thành lập
AFTA từ ngày 1/ 1/ 2005 sang ngày 1/ 1/ 2003. Sự thay đổi tiếp theo là sau cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997. Bất chấp những động cơ chính trị mạnh mẽ
đòi đảo ngợc tiến trình tự do hoá, năm 1998, tổ chức đang phải vất vả để đối phó với
hậu khủng hoảng về kinh tế này vẫn thông qua một loạt biện pháp táo bạo, trong đó có
thoả thuận của 6 nớc đầu tiên ký AFTA đẩy sớm lên một năm nhiều khoản cắt giảm
thuế quan trớc đó đã đợc hoạch định vào năm 2003. Hơn nữa, 5 nớc ASEAN gồm
Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan cùng ký kết Hiệp định công
nghệ thông tin (ITA) và vì thế có kế hoạch giảm thuế MFN đối với một số mặt hàng
có sự tăng trởng nhanh nhất trong tổng thơng mại của họ. Nh vậy, bức thông điệp của
ASEAN gửi tới thế giới đầy quyết tâm và rõ ràng: họ muốn thơng mại tự do cả trong
hoàn cảnh thuận lợi và khó khăn.
Sự quyết tâm đó của ASEAN đã đem lại những kết quả đáng kể. Mức thuế quan
trung bình giữa các nớc ASEAN đợc giảm từ 111.4% năm 1993 xuống còn 3.2% năm
1998 [11]. Tổng số vốn đầu t nớc ngoài ASEAN thu hút trong giai đoạn này đạt 132 tỷ
USD. Đầu t nớc ngoài vào ASEAN năm 2000 đã tăng 30% so với năm 1999, từ 21.8 tỷ
USD lên 28.4 tỷ USD [12] (tham khảo thêm Phụ lục 3).
Cùng với triển vọng về đầu t bớc đầu đợc cải thiện, thơng mại của ASEAN năm
2000 cũng tăng 19.9% với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 423.6 tỷ USD so với 353.3 tỷ
USD của năm 1999; tổng kim ngạch nhập khẩu tăng 22.8%, đạt 360.1 tỷ USD so với
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 14 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Năm 2002, mặc dù kinh tế thế giới phục hồi chậm chạp nhng các nền kinh tế
ASEAN vẫn đạt mức tăng trởng khá cao. Theo đánh giá của Ngân hàng phát triển
Châu á (ADB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), tăng trởng kinh tế của toàn khu vực
Đông Nam á là 4.1%, tăng khoảng 2 lần so với mức tăng 2% của năm 2001 và gần đạt
mức tăng 4.6% của năm 2000 [8] (xem biểu đồ 2).
Cùng với sự tăng trởng của GDP, năm 2002, tổng kim ngạch xuất khẩu của các
nớc ASEAN cũng tăng 2.9%, đạt trên 381 tỷ USD và tổng kim ngạch nhập khẩu tăng
2.5%, đạt trên 325 tỷ USD. Riêng quý I/ 2003, tổng xuất khẩu tăng gần 15.7% so với
cùng kỳ năm 2002, đạt 86.76 tỷ USD [14].
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 16 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Biểu đồ : Tốc độ tăng trởng kinh tế năm 2002 của các nớc ASEAN
Đơn vị: %
2.8
4.1
4.0
5.1
5.5
2.4
3.7
7.1
3.0
3.6
0 1 2 3 4 5 6 7 8
Thế giới
ASEAN
Malaysia
Thái Lan
Campuchia
Singapore

Đơn vị: Tỷ USD
Năm
Tổng
kim
ngạch
Xuất
khẩu
của
Nhập
khẩu
của
Tốc độ tăng trởng (%)
Tổng Kim
ngạch
thơng mại
Xuất
khẩu
sang
ASEAN
Nhập
khẩu
từ
ASEAN
1991 7.96 4.14 3.82 19.6 10.6 29.3 5.8 2.1
1992 8.47 4.26 4.21 6.4 3.0 9.9
1993 10.68 4.68 6.00 2.1 9.8 42.5
1994 13.21 6.38 6.83 23.5 36.2 13.6
1995 18.44 9.04 9.40 39.4 41.6 37.4
1996 20.40 9.70 10.70 4.6 -0.5 9.8
1997 24.36 12.03 12.33 19.4 24.0 15.2

Trong 6 tháng đầu năm 2003, theo số liệu thống kê của Bộ thơng mại Trung
Quốc (MOC) công bố ngày 17/ 8/ 2003, kim ngạch buôn bán giữa ASEAN và Trung
Quốc đạt 34.24 tỷ USD, tăng 45.3% so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó xuất khẩu từ
ASEAN sang Trung Quốc đạt 20.47 tỷ USD, tăng 55.5% và xuất khẩu của Trung
Quốc sang ASEAN đạt 13.77 tỷ USD, tăng 32.4%. Cũng theo dự kiến của MOC, kim
ngạch buôn bán ASEAN - Trung Quốc cả năm nay sẽ đạt hơn 70 tỷ USD [18].
1.1.3.2. Hợp tác về đầu t:
i. Đầu t của ASEAN vào Trung Quốc:
Biểu đồ : Đầu t của ASEAN vào Trung Quốc giai đoạn 1991 2001
Đơn vị: Tỷ USD
0.9
2.7
10.0
18.6
26.2
31.8
34.2
42.2
32.9
28.0
30.0
0.0
5.0
10.0
15.0
20.0
25.0
30.0
35.0
40.0

Indonesia 760 1,591 837
Thái Lan 2,880 4,971 1,994
Philippine 1,369 2,564 1,029
Việt Nam 373 375 86
Myanma 146 194 34
Campuchia 24 22 7
Bruney 14 36 4
Lào 14 25 5
FDI từ ASEAN
(đến hết năm 2000)
16,733 50,095 23,191
FDI từ ASEAN
(đến hết năm 2001)
17,972 53,468 26,175
Tổng FDI vào Trung
Quốc (đến hết 2001)
390,025 745,391 395,223
Nguồn: Bộ Ngoại thơng và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC) [16].
Bảng trên cho thấy trong số các nớc ASEAN, Singapore là nớc đầu t vào Trung
Quốc lớn nhất, chiếm tới gần 65% tổng FDI của cả ASEAN vào Trung Quốc với số
vốn FDI đạt 16.9 tỉ USD đến hết năm 2000, sau đó là Malaysia và Thái Lan nhng số
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 20 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
FDI của hai nớc này vào Trung Quốc kém hơn nhiều so với Singapore. Các nớc
ASEAN còn lại có kim ngạch đầu t vào Trung Quốc còn nhỏ, đặc biệt là đầu t của
Campuchia, Myanmar, Lào,Việt Nam và Brunei hầu nh không đáng kể.
Theo Bộ Thơng mại Trung Quốc (MOC), trong thời gian từ đầu năm 2003 đến
nay, một số nớc thành viên ASEAN nh Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia v
Philippines đã đầu t vào 982 dự án ở Trung Quốc với tổng giá trị cam kết là 2.82 tỷ
USD [18].

Đơn vị: triệu USD
Nớc Số dự án Tổng đầu t
Đầu t từ
Trung Quốc
Tổng 692 892.800 458.660
Việt Nam 41 48.770 31.000
Lào 15 44.040 29.370
Campuchia 50 110.830 85.000
Myanmar 30 146.380 48.580
Thái Lan 219 201.050 87.980
Malaysia 92 69.340 33.900
Singapore 161 78.350 68.620
Indonesia 50 159.070 59.620
Philippines 34 34.980 14.600
Nguồn: Bộ Ngoại thơng và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC) [16].
Theo đà phát triển của kinh tế, cùng với việc nâng cao năng lực kinh doanh của
của các doanh nghiệp và sự hỗ trợ về tài chính tiền tệ và chính sách của nhà nớc Trung
Quốc, sẽ ngày càng có nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đầu t ra bên ngoài. Theo dự
tính của Uỷ ban phát triển mậu dịch Liên hợp quốc (UNCTAD), các doanh nghiệp
Trung Quốc đã trở thành một trong những nhà đầu t nớc ngoài lớn nhất trong các nớc
đang phát triển. Các nớc ASEAN với vị trí địa lý láng giềng, với lịch sử và văn hoá gần
gũi với Trung Quốc, chắc chắn sẽ trở thành một trong những khu vực chủ yếu đón
nhận đầu t từ các doanh nghiệp Trung Quốc.
1.1.3.3. Hợp tác Tiểu vùng Mekong
ASEAN và Trung Quốc đã và đang hợp tác chặt chẽ trong các chơng trình và dự
án phát triển Mekong trong các khuôn khổ khác nhau nh phát triển tiểu vùng Mekong
mở rộng (GMS), Hợp tác phát triển lu vực Mekong ASEAN (AMBDC) và Uỷ hội sông
Mekong (MRC), trong đó phát triển tiểu vùng Mekong mở rộng là nội dung hợp tác
then chốt giữa Trung Quốc và ASEAN nhằm giúp các bên đối tác khai thác những
tiềm năng kinh tế đa dạng của mình và phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở bình đẳng,

1.1.3.5. Nông nghiệp:
Trong các năm qua, hợp tác nông nghiệp Trung Quốc - ASEAN đã có những
tiến triển tốt. Nhiều lớp đào tạo, hội thảo và hội nghị về công nghệ trong nông nghiệp
và đào tạo cán bộ đã đợc tổ chức tại Trung Quốc và các nớc ASEAN. Ngày 2/ 11/
2002, Bản ghi nhớ về nông nghiệp Trung Quốc ASEAN đã đợc ký kết. Bản ghi nhớ
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 23 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
đã tập trung vào hợp tác nông nghiệp trung hạn và dài hạn trong những lĩnh vực nh lúa
lai, nghề cá và thủy sản, công nghệ sinh học, sản phẩm và máy nông nghiệp.
1.1.3.6. Phát triển nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực là vấn đề có ý nghĩa chiến lợc, tạo nền tảng cho hợp
tác chung giữa ASEAN và Trung Quốc trong các lĩnh vực khác. Phát triển nguồn nhân
lực sẽ đem lại sự hiểu biết sâu sắc hơn giữa ASEAN và Trung Quốc thông qua trao đổi
và liên kết giữa các chuyên gia, quan chức. Năm 2001, Trung Quốc đa ra đề nghị 14
dự án [20] hợp tác trong các lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực. Hầu hết các dự án này
đã bắt đầu đợc thực hiện và đã cho kết quả khả quan. Năm 2002, Trung Quốc đa ra
tiếp 7 đề nghị nữa [20]. Tất cả các đề nghị này đã đợc thông qua tại cuộc gặp lần thứ 4
của Uỷ ban hợp tác chung ASEAN - Trung Quốc và hiện đang đợc thực hiện.
1.1.3.7. Công nghệ thông tin và liên lạc (ICT)
Trong nền kinh tế tri thức, ICT đóng vai trò chủ đạo nhằm đảm bảo sản lợng
cao giúp thúc đẩy tăng trởng kinh tế. ASEAN và Trung Quốc cho rằng hợp tác trong
lĩnh vực ICT cần đợc coi là một công cụ để rút ngắn khoảng cách phát triển kinh tế.
Một số dự án đã đợc xây dựng nhằm thúc đẩy trao đổi thông tin về xây dựng viễn
thông, luật lệ và quy định mạng, bảo mật thông tin. Bên cạnh đó, Trung Quốc luôn
ủng hộ và tham gia vào chơng trình phát triển ASEAN điện tử (e-ASEAN). Trong
những năm tới, Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng cờng hợp tác trong việc đào tạo công nghệ
thông tin cho nguồn nhân lực của các nớc ASEAN và tích cực tham gia vào việc phát
triển những cơ sở hạ tầng cần thiết để hỗ trợ cho công nghệ thông tin ở các nớc
ASEAN.
1.1.3.8. Giao thông vận tải:

Về mặt chính trị ngoại giao và an ninh, các nớc ASEAN và Trung Quốc đã có
truyền thống hợp tác hữu nghị lâu đời. Từ đầu những năm 90 đến nay, một số nớc
trong ASEAN đã lần lợt thiết lập, khôi phục hoặc bình thờng hoá quan hệ ngoại giao
với Trung Quốc, từ đó góp phần mở đờng hoặc khai thông cho quan hệ kinh tế và các
quan hệ khác giữa hai bên phát triển toàn diện. Giữa một số nớc ASEAN và Trung
Quốc tuy vẫn còn tồn tại một số bất đồng về biên giới lãnh thổ, trong đó có vấn đề
tranh chấp chủ quyền ở biển Đông, nhng tại cuộc gặp gỡ ở Phnompenh tháng 11/
2002, lãnh đạo cao cấp hai bên đã ký Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển
Đông (DOC), nhằm tiến tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC), mở đờng
cho một giải pháp cơ bản, lâu dài đối với các tranh chấp ở biển Đông. Ngoài ra, hai
bên đã thông qua Tuyên bố chung ASEAN - Trung Quốc về hợp tác trong lĩnh vực an
ninh phi truyền thống. Gần đây nhất, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 9 diễn ra
vào đầu tháng 10/ 2003 tại Bali (Indonesia), các nhà lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc
đã thông qua Tuyên bố chung về đối tác chiến lợc ASEAN - Trung Quốc vì hoà bình
và thịnh vợng, đồng thời Trung Quốc cũng chính thức tham gia Hiệp ớc thân thiện và
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 25 -

Trích đoạn Thúc đẩy cải cách kinh tế, tăng cờng tự do hoá thơng mại và xúc tiến đầ ut Tăng cờng công tác xúc tiến thơng mại Phát huy lợi thế về vị trí địa lý để nâng cao kim ngạch thơng mại song ph- Tiến hành đàm phán với Trung Quốc để đợc hởng các điều kiệ nu đãi hơn Thu hẹp khoảng cách phát triển giữa Việt Nam và các nớc ASEAN khác
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status