Thực trạng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam sau khi gia nhập WTO - Pdf 23

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính tất yếu
Xu thế toàn cầu hóa, HNKTQT và tự do hóa thương mại đang là vấn đề nổi bật
của kinh tế thế giới hiện nay. Chính đặc điểm này tạo ra sự liên kết và phụ thuộc lẫn
nhau càng cao giữa các quốc gia và khu vực. Các định chế và tổ chức kinh tế khu vực và
quốc tế đã được hình thành để phục vụ cho kinh tế quốc tế, tạo lập hành lang pháp lý
chung và để các nước cùng tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề lớn của kinh tế
thế giới mà không một quốc gia nào có thể thực hiện một cách đơn lẻ. Gia nhập WTO là
cơ hội lớn và cũng là thách thức lớn đối với NCNĐT Việt Nam. CNĐT Việt Nam bên
cạnh những cơ hội mới với khả năng tiếp cận thị trường rộng lớn hơn, khả năng thu hút
vốn đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ sẽ phải đối mặt với những thách thức
to lớn xuất phát từ các quy định của WTO về thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ,
đầu tư, sở hữu trí tuệ. Nâng cao năng lực cạnh tranh là giải pháp then chốt để kinh tế nói
chung và CNĐT nói riêng có thể hội nhập thành công
Trong Chiến lược phát triển ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020 đã nêu
rõ, ngành công nghiệp tiếp tục giữ vai trò động lực, quyết định trong phát triển nền kinh
tế, đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại với một số
ngành công nghiệp chế tác tham gia vào nhóm nước đứng đầu trong khu vực. Trên cơ sở
các quan điểm và mục tiêu đó, cần phát triển phù hợp cho những ngành sản xuất có hiệu
quả (điện tử, điện tử-Tin học, cơ điện tử), để trở thành các ngành mũi nhọn. Bắt đầu từ
những năm giữa thập niên 90, chính phủ Việt Nam đã “bắt tay” vào xây dựng một
ngành công nghiệp điện tử cho Việt Nam, nhưng theo nhiều nhà nghiên cứu kinh tế thì
chưa thể khẳng định là đã có ngành công nghiệp điện tử tại Việt Nam. Do hàng điện tử
Việt Nam với chất lượng còn thấp và không ổn định, giá cả lại cao do đó, chưa khai thác
được hết tiềm năng và thế mạnh của ngành. Trong một vài năm trở lại đây, sự phát triển
của thị trường hàng điện tử Việt Nam sẽ bị tác động mạnh bởi xu thế toàn cầu hoá, tự do
hoá thương mại và xu thế chuyển giao công nghệ nhanh, đặc biệt là khi Việt Nam thực
hiện lịch trình giảm thuế quan theo quy định của WTO đối với mặt hàng điện tử.
Xuất phát từ thực tế trên, đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao sức cạnh
tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam sau khi gia nhập WTO” được chọn để
nghiên cứu.

Chương 2: Tình hình cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam từ 1990
đến nay
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh sản xuất ngành
công nghiệp điện tử sau khi Việt Nam gia nhập WTO
Chương 1. Cơ sở lí luận về sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử và kinh
nghiệm nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử của một số nước
2
1.1 Lí luận chung về cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và các khái niệm liên quan
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Về phương diện kinh tế, cạnh tranh chỉ có thể xuất hiện trong điều kiện của cơ
chế thị trường, nơi mà cung cầu là cốt vật chất, giá cả là diện mạo và cạnh tranh là linh
hồn sống của thị trường.
P.Samuelson cho rằng “Cạnh tranh là sự đối đầu giữa các DN cạnh tranh với
nhau để giành khách hàng hoặc thị phần”.
Các học thuyết kinh tế thị trường, dù ở trường phái nào đều thừa nhận rằng, cạnh
tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường, nơi mà cung - cầu và giá cả
hàng hoá là những nhân tố cơ bản của thị trường, là đặc trưng cơ bản của cơ chế thị
trường, cạnh tranh là linh hồn của sản phẩm. Cạnh tranh là một quy luật tất yếu và là
động lực phát triển nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế xã hội phức tạp, do cách tiếp cận khác nhau,
cho nên có các quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Có thể dẫn ra một số quan điểm như
sau:
Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi
biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt được mục tiêu kinh tế của mình, thông
thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất,
thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh
tranh là tối đa hóa lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận.
1.1.1.2. Các khái niệm liên quan
a. Sức cạnh tranh

hay gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị trờng cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ
của DN. Có nhiều yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của DN, trong đó cần phân
biệt các yếu tố ngoài DN và các yếu tố do DN chi phối.
c. Khả năng cạnh tranh
Khả năng cạnh tranh là sự năng động, khả năng đáp ứng thay đổi nhanh chóng
của thị trường, năng lực sản xuất dựa trên công nghệ là nền tảng để sống còn và phát
triển.
d. Chất lượng sản phẩm
Khi nêu câu hỏi “thế nào là chất lượng sản phẩm”, chất lượng thường nhận được
rất nhiều câu trả lời khác nhau tùy theo đối tượng được hỏi là ai. Các câu trả lời thường
thấy như:
Đó là những gì họ được thỏa mãn tương đương với số tiền họ chi trả. Đó là
những gì họ muốn được thỏa mãn nhiều hơn so với số tiền họ chi trả. Sản phẩm phải đạt
hoặc vượt trình độ của khu vực, hay tương đương hoặc vượt trình độ thế giới.
Một số định nghĩa về chất lượng thường gặp :
Chất lượng là mức phù hợp của sản phẩm đối với yêu cầu của người tiêu dùng.
(European Organization for Quality Control). Hay chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu.
(Philip B. Crosby) và chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể tạo cho thực
thể đó khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã nêu ra và nhu cầu tiềm ẩn. (ISO 8402)
( thực thể trong định nghĩa trên được hiểu là sản phẩm theo nghĩa rộng).
Trên thực tế, nhu cầu có thể thay đổi theo thời gian, vì thế, cần xem xét định kỳ
các yêu cầu chất lượng để có thể bảo đảm lúc nào sản phẩm của DN làm ra cũng thỏa
mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng.
Các nhu cầu thường được chuyển thành các đặc tính với các tiêu chuẩn nhất
định. Nhu cầu có thể bao gồm tính năng sử dụng, tính dễ sử dụng, tính sẵn sàng, độ tin
cậy, tính thuận tiện và dễ dàng trong sửa chữa, tính an toàn, thẩm mỹ, các tác động đến
môi trường.
Các DN sản xuất hoặc mua sản phẩm để bán lại trên thị trường cho người tiêu
dùng nhằm thu được lợi nhuận, vì thế, quan niệm của người tiêu dùng về chất lượng
phải được nắm bắt đầy đủ và kịp thời. Dưới quan điểm của người tiêu dùng, chất lượng

muốn mua cái gì đó hơn là chính bản thân sản phẩm.
Theo P.A.Samuelson: “Giá trị sử dụng là một khái niệm trừu tượng để chỉ tính
thích thú chủ quan, tính hữu ích hoặc một sự thỏa mãn do tiêu dùng hàng hóa mà có.”
Giá trị sử dụng là sự cảm nhận của một cá nhân về sự thỏa mãn nhu cầu và sự thích thú
của mình thông qua việc sử dụng một sản phẩm vật chất hay một dịch vụ.
Giá trị sử dụng của sản phẩm phụ thuộc vào:
Thuộc tính công dụng của sản phẩm, được tạo ra bởi chất thể của sản phẩm, do
đặc tính kỹ thuật của sản phẩm qui định. Thuộc tính công dụng được gọi là phần cứng
của sản phẩm.
Thuộc tính được thụ cảm bởi người tiêu dùng, là những gì mà người tiêu dùng
cảm thấy có nơi sản phẩm, được tạo ra nhờ dịch vụ bán và sau khi bán. Thuộc tính được
thụ cảm bởi người tiêu dùng được gọi là phần mềm của sản phẩm. Nhiều khi người tiêu
dùng mua sản phẩm không đơn thuần vì những đặc tính kỹ thuật và khả năng phục vụ
của sản phẩm mà có thể vì nó làm cho người mua có cảm giác sang trọng phù hợp với
địa vị xã hội của họ hay một cảm giác nào đó mang lại cho khách hàng sự thích thú nào
đó của riêng họ.
Thực tế kinh doanh cho thấy thuộc tính được thụ cảm bởi người tiêu dùng là một
bộ phận quan trọng cấu thành nên giá trị sử dụng của sản phẩm và là yếu tố phải đặc
biệt chú ý khi đưa sản phẩm của mình tham gia thị trường.
Giá trị sử dụng của sản phẩm còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như lượng hàng
cung so với cầu, sức mua, ý muốn sẳn sàng mua...Nếu cung nhỏ hơn cầu, phần mềm của
5
sản phẩm tăng lên. Các nhà đầu cơ thường lợi dụng cách nầy để tăng giá sản phẩm trong
thị thị trường độc quyền để thu lợi bất chính. Nếu cung lớn hơn cầu, phần mềm của sản
phẩm giảm đi, đồng thời giá trị sử dụng cũng giảm theo.
Tóm lại :
Công dụng của sản phẩm + sự thích thú, sự thụ cảm của người tiêu dùng
Giá trị sử dụng của sản phẩm
Các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm nói lên khả năng có thể thỏa mãn nhu cầu của
sản phẩm trong khi đó giá trị sử dụng của sản phẩm chính là mức cụ thể đáp ứng nhu

1.1.3. Năng lực cạnh tranh và các cấp độ của năng lực cạnh tranh
1.1.3.1. Năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh (hay sức cạnh tranh được sử dụng với nghĩa như nhau trong
đề tài). Thuật ngữ về năng lực cạnh tranh tuy được sử dụng rộng rãi nhưng vẫn chưa có
một khái niệm rõ ràng hay cách thức đo lường năng lực cạnh tranh cả ở cấp quốc gia,
cấp ngành, DN và ở cấp sản phẩm.
6
Sức cạnh tranh là tổng hoà các đặc tính về tiêu dùng và giá trị vượt trội của sản
phẩn trên thị trường, có nghĩa là sự vượt trội của sản phẩm so với các sản phẩm cạnh
tranh cùng loại trong điều kiện cung vượt cầu.
Theo quan điểm tân cổ điển dựa trên lí thuyết thương mại truyền thống, năng lực
cạnh tranh của ngành được xem xét được xem xét qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất
và năng xuất. Hiệu quả của các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh được đánh giá
dựa trên chi phí thấp. Chi phí sản xuất thấp không chỉ là điều kiện cơ bản của lợi thế
cạnh tranh mà còn đóng góp tích cực vào nền kinh tế.
Lý thuyết tài chính CN xem xét năng lực cạnh tranh của ngành dựa trên khả năng
sản xuất ra sản phẩm ở một mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà
không có sự tự cấp, đảm bảo cho ngành đứng vững trước các đối thủ khác hay sản phẩm
thay thế.
Theo quan điểm tổng hợp của Van Duren, Martin và Westgren thì năng lực canh
tranh là khả năng tạo ra, duy trì lợi nhuận và thị phần trên thị trường trong và ngoài
nước. Các chỉ số đánh giá là năng suất lao động, tổng năng suất của các yếu tố sản xuất,
công nghệ, chi phí cho nghiên cứu và phát triển, chất lượng và tính khác biệt của sản
phẩm.
1.1.3.2. Các cấp độ cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh có thể phân ra làm 4 cấp độ, năng lực cạnh tranh ở 4 cấp dộ
này có liên quan mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét và đánh
giá, đề ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành, cần có mối liên quan
chung mật thiết của 4 cấp độ năng lực cạnh tranh này.
Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia:

trong khi Việt Nam có tiến bộ trong đổi mới thì các nước cũng có những cải cách nhanh
hơn, do đó vị trí Việt Nam trong xếp hạng chưa được cải thiện.
Năng lực cạnh tranh cấp ngành:
Khả năng cạnh tranh có thể được đánh giá bằng các chỉ số định lượng như: Tỷ lệ
bảo hộ hữu hiệu và lợi thế so sánh biểu hiện. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế,
chỉ số ERP giúp chúng ta xác định được các ngành nào sẽ có lợi thế và bất lợi thế do
những thay đổi CS liên quan đến tự do hoá thương mại. Chỉ số RCA càng cao thì mặt
hàng càng có lợi thế cạnh tranh, nếu RCA <1 thì mặt hàng không có lợi thế so sánh, nếu
1 < RCA < 2,5 thì mặt hàng có lợi thế so sánh và RCA > 2,5 thì mặt hàng có lợi thế
cạnh tranh cao. Kết quả nghiên cứu của nhóm kỹ thuật.
Một mặt, tổng số năng lực cạnh tranh của ngành trong nước tạo thành năng lực
cạnh tranh của quốc gia đó. Năng lực cạnh tranh của ngành bị hạn chế bị hạn chế khi
năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và năng lực cạnh tranh sản phẩm hàng hóa mà ngành
sản xuất ra thấp.mặt khác, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia thể hiện qua môi trường
cạnh tranh, cạnh tranh trong nước và quốc tế, đặc biệt là trong WTO hiện nay. Trong đó,
các cam kết về hợp tác kinh tế quốc tế các CS kinh tế vĩ mô và hệ thống luật pháp có
ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của ngành, DN, và sản phẩm hàng hóa quốc
gia đó.
Tóm lại một ngành có năng lực cạnh tranh nếu có “năng lực duy trì được lợi nhuận
và thị phần trên các thị trường trong và ngoài nước”. Trong phạm vi nghiên cứu của đề
án, chỉ tập trung nghiên cứu khả năng cạnh tranh ngành, DN và sản phẩm.
Trong thực tế, quá trình điều chỉnh của ngành diễn ra cùng với những biến đổi về
môi trường cạnh tranh kinh tế nói chung. Khả năng cạnh tranh của ngành phụ thuộc vào
yếu tố do ngành tự quyết định nhưng nó cũng phụ thuộc vào các yếu tố do Chính phủ
quyết định. Nó cũng phụ thuộc vào cả những yếu tố mà cả Chính phủ và ngành chỉ kiểm
soát được ở một mức độ hạn chế hoặc hoàn toàn không thể quyết định được.
Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngành được chia thành 4 nhóm:
Nhóm các yếu tố do ngành quyết định: bao gồm chiến lược phát triển ngành, sản
phẩm chế tạo, lựa chọn công nghệ, đào tạo cán bộ,đầu tư nghiên cứu công nghệ, phát
triển sản phẩm, chi phí sản xuất và quan hệ với bạn hàng.

xác định được các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động
khác nhau và cần thực hiện việc đánh giá bằng cả định tính và định lượng. Các DN hoạt
động sản xuất kinh doanh ở những ngành, lĩnh vực khác nhau có các yếu tố đánh giá
năng lực cạnh tranh khác nhau. Mặc dù vậy, vẫn có thể tổng hợp được các yếu tố đánh
giá năng lực cạnh tranh của một DN bao gồm: giá cả sản phẩm và dịch vụ, chất lượng
sản phẩm và bao gói, kênh phân phối sản phẩm và dịch vụ bán hàng, thông tin và xúc
tiến thương mại, năng lực nghiên cứu và phát triển, thương hiệu và uy tín của DN, trình
độ lao động, thị phần sản phẩm DN và tốc độ tăng trưởng thị phần, vị thế tài chính,
năng lực tổ chức và quản trị DN nhưng trong để tài chỉ nghiên cứu năng lực cạnh tranh
dưới 3 loại cạnh tranh cơ bản:
Cạnh tranh bằng giá trị sử dụng (chất lượng, tính năng, mẫu mã,..). Để phát triển,
các DN phải không ngừng cải tiến, hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm - hàng
hóa - dịch vụ, đồng thời không ngừng nghiên cứu, thiết kế sản phẩm mới, tạo ra những
đặc trưng khác biệt của sản phẩm - hàng hóa - dịch vụ để thoả mãn tốt nhất nhu cầu
khách hàng, nhằm duy trì và mở rộng thị trường. Các đặc điểm trên đã làm cho chất
lượng trở thành một yếu tố cạnh tranh hàng đầu. Nhiều công ty đã chuyển vốn đầu tư
vào các khu vực có khả năng thoả mãn khách hàng và đem lại lợi nhuận cao. Sản phẩm
có thể được thiết kế tại một nước, sản xuất tại một số nước khác và bán ở mọi nơi trên
thế giới. Thực tế đã chứng minh rằng, các công ty thành công trên thương trường đều là
những công ty đã nhận thức và giải quyết tốt bài toán chất lượng. Sự phát triển của khoa
học và công nghệ ngày nay đã tạo cơ hội cho các nhà sản xuất kinh doanh nhạy bén tận
9
dụng lợi thế riêng của mình, cung cấp những sản phẩm - hàng hóa - dịch vụ có chất
lượng cao, thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng và tạo lợi thế cạnh tranh
trên thương trường.
Cạnh tranh bằng giá cả: Bất kỳ nhà kinh doanh nào khi tham gia thị trường đều
quan tâm đến vấn đề cạnh tranh giá cả là chủ yếu hay chất lượng là chủ yếu. Về đại thể,
giá cả là một chỉ tiêu quan trọng trong cạnh tranh, dù cho chất lượng sản phẩm có hoàn
hảo bao nhiêu đi nữa. Ngày nay, các nhà kinh doanh không những chỉ quan tâm đến giá
bán, giá mua sản phẩm mà còn phải quan tâm rất lớn đến những chi phí trong quá trình

Các nhân tố bên trong DN: đó là các nhân tố về sản xuất như đối tượng lao đọng,
lực lượng lao động, cung cấp lao động.
Theo Michael Porter, năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào khả năng khai thác các
năng lực độc đáo của mình để tạo ra sản phẩm có chi phí thấp và tính dị biệt của sản
phẩm. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh, DN cần xác định được lợi thế của mình mới
có thể giành thắng lợi. Có hai nhóm lợi thế cạnh tranh:
10
Lợi thế về chi phí: Tạo ra sản phẩm có chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh. Các
yếu tố sản xuất như đất đai, vốn và lao động, thường được xem là nguồn lực để tạo lợi
thế cạnh tranh.
Lợi thế về sự khác biệt: Dựa vào sự khác biệt của sản phẩm làm tăng giá trị cho
người tiêu dùng hoặc giảm chi phí sử dụng sản phẩm hoặc nâng cao tính hoàn thiện khi
sử dụng sản phẩm. Lợi thế này cho phép thị trường chấp nhận mức giá thậm chí cao hơn
đối thủ.
Năng lực cạnh tranh ở cấp sản phẩm:
Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, sức cạnh tranh của sản phẩm là sự vượt trội của nó
so với sản phẩm cùng loại do các đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị trường.
Có quan điểm cho rằng, sức cạnh tranh của sản phẩm chính là năng lực nắm giữ và
nâng cao thị phần của loại sản phẩm do chủ thể sản xuất và cung ứng nào đó đem ra để
tiêu thụ so với sản phẩm cùng loại do chủ thể sản xuất và cung ứng khác đem đến tiêu
thụ ở cùng một khu vực thị trường vào thời gian nhất định.
Tuy nhiên, các định nghĩa trên đều thiếu một yếu tố cơ bản mà người tiêu dùng
quan tâm nhất, đó là, tương quan giữa chất lượng và giá cả.
Với cách tiếp cận trên, sức cạnh tranh của sản phẩm có thể hiểu là sự vượt trội so
với các sản phẩm cùng loại về chất lượng và giá cả với điều kiện các sản phẩm tham gia
cạnh tranh đều đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng. Có nghĩa là, những sản phẩm
mang lại giá trị sử dụng cao nhất trên 1 đơn vị giá cả là những sản phẩm có khả năng
cạnh tranh cao hơn. Tính độc đáo: Đây là tiêu chí thể hiện rõ nhất năng lực cạnh tranh
của sản phẩm. Trong một xã hội tiêu dùng, khi vòng đời sản phẩm ngày càng ngắn lại,
khi sự cạnh tranh về chất lượng và giá cả được đẩy tới mức ngang bằng nhau thì sự độc

Do đó, việc tính toán chi phí sản xuất và CS giá cả hợp lý là đặc biệt cần thiết đối với
DN trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay. Các chi phí cơ bản là: nguyên, nhiên
vật liệu, khấu hao tài sản cố định, thu nhập của người lao động, các chi phí quản lý...
Việc đánh giá sức cạnh tranh của sản phẩm là hết sức cần thiết, giúp nhà sản xuất
biết rõ sản phẩm của ta đang đứng ở đâu, sức cạnh tranh như thế nào so với đối thủ... Từ
đó, có chiến lược phát triển phù hợp, đầu tư vào các sản phẩm có khả năng cạnh tranh
thì mới đảm bảo thị phần bền vững của DN trong nền kinh tế thị trường. Trong đó, việc
lựa chọn đúng phương pháp đánh giá sức cạnh tranh của sản phẩm có ý nghĩa thực tiễn
rất lớn.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố cơ bản: các yếu
tố nội tại của sản phẩm như năng lực sản xuất, giá cả, chất lượng, thị trường tiêu thụ,
các yếu tố bên trong DN như trình độ nhân lực, trình độ quản lý, trình độ công nghệ, uy
tín thương hiệu, các yếu tố bên ngoài DN như điều kiện về các nhân tố sản xuất, điều
kiện về cầu thị trường, vai trò của Nhà nước, yếu tố hội nhập...
1.1.4. Lí luận về cạnh tranh
1.1.4.1. Quan điểm của Porter
Theo Porter thì không một quốc gia nào có thể có khả năng cạnh tranh ở tất cả các
ngành hoặc ở hầu hết các ngành. Các quốc gia chỉ có thể thành công trên thương trường
kinh doanh quốc tế khi họ có lợi thế cạnh tranh bền vững trong một số ngành nào đó.
Porter phê phán các học thuyết cổ điển trước đây cho rằng ưu thế cạnh tranh của các DN
trên thương trường cạnh tranh quốc tế là chỉ dựa vào lợi thế tuyệt đối của Adam Smith
hay chỉ có lợi thế so sánh của David Ricardo. Theo ông, khả năng cạnh tranh của một
quốc gia ngày nay lại phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và sự năng động của ngành của
quốc gia đó. Khi thế giới cạnh tranh mang tính chất toàn cầu hoá thì nền tảng cạnh tranh
sẽ chuyển dịch từ các lợi thế tuyệt đối hay lợi thế so sánh mà tự nhiên ban cho sang
những lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và duy trì vị thế cạnh tranh lâu dài của các
DN trên thương trường quốc tế.
Khi nền tảng của cạnh tranh càng chuyển dịch sang sự sáng tạo và tri thức mới thì
vai trò của quốc gia càng tăng lên. Lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và thông qua
quá trình địa phương hoá cao độ. Sự khác biệt về giá trị quốc gia, văn hoá, cấu trúc kinh

vụ cho du lịch với rất nhiều dịch vụ gia tăng kèm theo, từ dịch vụ khách sạn, nhà hàng,
lễ hội đến các dịch vụ vui chơi giải trí, các trung tâm mua sắm và các chương trình tiếp
thị toàn cầu. Điều đó đã tạo cho họ có lợi thế cạnh tranh quốc gia mà các nước khác khó
có thể vượt trội. Việt Nam có lợi thế so sánh trong ngành du lịch với một quần thể di sản
thiên nhiên và văn hoá độc đáo ở cả 3 miền của đất nước, nhưng muốn có lợi thế cạnh
tranh quốc gia để giành ưu thế trên thương trường quốc tế, Việt Nam cần có sự phối kết
hợp hài hoà một hệ thống cung cấp giá trị gia tăng theo “các viên đá tảng kim cương của
Porter”, những hoạt động giải quyết thị trường đầu ra, thị trường đầu vào cung cấp các
hoạt động cần thiết cho ngành du lịch, như cung cấp đồ ăn thức uống, dịch vụ vui chơi
giải trí và các ngành hỗ trợ, như giao thông cầu đường, các ngành vận tải đường sông,
đường bộ, hàng không, đến ngành quảng cáo... tạo ra sự liên kết chặt chẽ. Đây là những
mối quan hệ tương hỗ cơ bản tạo ra giá trị gia tăng của ngành. Sự hợp tác càng hiệu quả
bao nhiêu thì năng suất lao động của ngành càng cao bấy nhiêu và là cơ sở tạo ra lợi thế
cạnh tranh của ngành và quốc gia.
Dưới góc độ kinh tế, thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về một loại hàng
hoá hoặc dịch vụ nhất định. Nếu như các sản phẩm trên thị trường có thể thay thế hoàn
toàn cho nhau (giống hệt nhau) thì người tiêu dùng có thể lựa chọn bất cứ DN nào trong
số các DN đang cung cấp sản phẩm trên thị trường. Lúc này, mỗi nhà cung cấp đều phải
chịu sức ép cạnh tranh từ DN khác. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy, rất hiếm khi tồn tại
một thị trường mà các sản phẩm lại có thể thay thế hoàn toàn cho nhau. Các DN luôn
tìm mọi cách để dị biệt hoá sản phẩm của mình trước thói quen tiêu dùng của khách
13
hàng.
1.1.4.2.Quan điểm của Edward H. Chamberlin
Kinh tế học lý giải về tính dị biệt hoá của sản phẩm trên thị trường từ góc độ của
cạnh tranh và độc quyền. Theo nhà kinh tế học người Mỹ, Edward H. Chamberlin, trong
kinh doanh, mỗi sản phẩm mang lại tính độc đáo bằng đặc điểm riêng có của nó trong
việc hình thành như thương hiệu, khác biệt về chất lượng, cung cách phục vụ… điều
này thể hiện khía cạnh độc quyền của nó. Mỗi sản phẩm là đối tượng cạnh tranh của sản
phẩm khác. Việc dị biệt hoá đã làm cho cả độc quyền và cạnh tranh cùng có mặt. Khi

đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả, (2) Thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa
lý cụ thể trong đó có những hàng hoá, dịch vụ có thể thay thế cho nhau với các điều kiện
cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực lân cận”. Về cơ bản,
cách thức nhận dạng thị trường liên quan của luật cạnh tranh ở Việt Nam giống với các
nước khác.
1.1.5. Các tiêu thức đánh giá năng lực cạnh tranh ở cấp độ ngành
14
Chỉ số về năng suất: Michel Porter, người mở ra môn học chiến lược và lợi thế
cạnh tranh của Trường đại học Harvard (Mỹ), trong tác phẩm nổi tiếng nhất về cạnh
tranh: “Lợi thế cạnh tranh quốc gia” đã cho rằng lợi thế cạnh tranh quốc gia cần được
xem xét trên góc độ năng suất, vì đây là nhân tố cơ bản cho việc tăng sức mạnh cạnh
tranh quốc gia trong dài hạn.
Chỉ số về công nghệ: Về khả năng cạnh tranh trong khoa học và công nghệ (bao
gồm các chỉ tiêu: số lượng tiến bộ công nghệ được ứng dụng, số kỹ sư và nhà khoa học
trên một triệu dân, tổng chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển): Theo đánh giá của Diễn
đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam có điểm rất thấp về sự tiến bộ công nghệ. Cho đến cuối
năm 2003, vẫn chưa tạo được những cơ chế thiết thực để gắn kết khoa học - công nghệ
với sản xuất, kinh doanh, chưa hình thành được thị trường khoa học - công nghệ. Hoạt
động nghiên cứu khoa học - công nghệ vẫn dựa chủ yếu vào ngân sách nhà nước. Chưa
phân biệt rõ hoạt động nghiên cứu cơ bản cần được Nhà nước tài trợ với hoạt động
nghiên cứu ứng dụng mà sản phẩm nghiên cứu phải trở thành hàng hóa, được tạo nguồn
kinh phí từ người sử dụng các sản phẩm đó. Môi trường kinh doanh và sự phát triển ít
coi trọng chất lượng và còn mang nhiều yếu tố bao cấp nên chưa tạo được động lực và
sức ép buộc mọi DN chăm lo đổi mới công nghệ, tìm đến các cơ sở khoa học, công
nghệ.
Chỉ số về sản phẩm như chất lượng sản phẩm: đây là chỉ tiêu quan trọng trong việc
xác định năng lực cạnh tranh thực tế của mỗi một ngành hàng.
Chỉ số về đầu vào và chi phi sản xuất: Sự yếu kém về cơ sở hạ tầng đã và sẽ hạn
chế thu hút đầu tư làm tăng chi phi sản xuất kinh doanh của DN. Cạnh tranh giữa các
nước về cơ sở hạ tầng sẽ là sự cạnh tranh dài hạn, nhất là trong điều kiện các hình thức

là sản phẩm có khả năng cạnh tranh, có thể mở rộng sản xuất.
Chỉ số về lợi nhuận: Mục tiêu hàng đầu của DN là lợi nhuận, trong quá trình tự tổ
chức và cạnh tranh vì lợi nhuận của các DN tư bản, xã hội sẽ được lợi hơn và xã hội sẽ
tiến nhanh về phía trước hơn là hình thái đặt mục tiêu trực tiếp thoả mãn các quyền lợi
của xã hội lên trên quyền lợi của các DN. Đây là luận điểm mà đại diện là Adam Smith
ông tổ của kinh tế học tư bản chủ nghĩa và đã phần nào được chứng thực bằng thực tế.
Kinh tế thị trường là cạnh tranh, không còn độc quyền nữa, và chỉ có cạnh tranh mới
đem lại sáng tạo, thực tiễn, hàng có phẩm chất cao, giá rẻ, có người tiêu thụ nhiều, đem
lợi nhuận lại cho người sản xuất.
Chỉ số về thị phần: Thị phần DN là một trong những cơ sở để xác định các thoả
thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm, xác định DN, nhóm DN có vị trí thống lĩnh trên thị
trường, xác định các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm và là căn cứ quan trọng để
được hưởng miễn trừ đối với tập trung kinh tế.
Theo Luật Cạnh Tranh của Việt Nam việc xác định Thị phần sẽ không có sự phân
biệt giữa DN nhà nước hay DN tư nhân và sẽ được căn cứ trên doanh số đối với một
loại hàng hoá dịch vụ. Cơ sở để xác định khả năng gây hạn chế cạnh tranh của DN sẽ
được cơ quan quản lý cạnh tranh căn cứ vào 4 chỉ tiêu: năng lực tài chính, năng lực
công nghệ, quyền sở hữu và quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp và quy mô
mạng lưới phân phối.
1.2. Lí luận chung về ngành công nghiệp điện tử
1.2.1. Khái niệm
Ngành CNĐT là ngành sản xuất: vật liệu, linh phụ kiện, cấu kiện điện tử, thiếp
bị... trong sản xuất thiếp bị lại bao gồm: thiết kế, tổng thể thiết bị, thiết kế công nghệ,
thiết kế kĩ thuật CN,thiết kế mạch điện, thiết kế chi tiết CN, thiết kế và chế tạo vỏ, đế
máy, lắp ráp(lắp ráp là khâu cuối cùng trong sản xuất thiết bị và lắp ráp là bộ phận quan
trọng của sản xuất CNĐT).
Lắp ráp thiếp bi có 3 dạng chính, SKD(Semi Knock Down)-lắp ráp từ các linh
kiện, CKD(Complex Knock Down )-lắp rắp từ các chi tiết rời trọn bộ, IKD(Incomplex
Knock Down)-lắp ráp từ các linh kiện rời.
Công nghệ thông tin(Information Technology, viết tắt là IT) là ngành ứng dụng

tinh" chuyên sản xuất một số linh kiện, phụ tùng nhất định.
1.2.2. Phân loại
Có nhiều tiêu thức khác nhau để phân chia ngành CNĐT ra thành nhiều ngành
nhỏ, đề tài chỉ phân loại và phân tích ngành CNĐT theo:
Thiết bị điện tử dân dụng: các thiết bị tiêu dùng trong đời sống sinh họat gia đình
như radio, tivi. Radio cassette, đầu video...ở một số quốc gia coi một số loại máy tính cá
nhân là thiết bị điện tử dân dụng, vì thị trường tiêu thụ có một tỷ trọng lớn sử dụng
chúng thực sự là dân dụng.
Thiết bị điện tử CN là các thiết bị dùng trong CN.
Thiết bị tin học: máy tính, các thiết bị ngoại vi và các phần mềm.
Thiết bị viễn thông: tất cả các thiết bị điện tử dùng để liên lạc, trao đổi, truyền tin
từ xa gồm cả phần cúng và phần mềm.
Điện tử, công nghệ thông tin, viễn thông là 3 lĩnh vực CN riêng nhưng lại có mối
liên hệ với nhau nhưng thường được nghiên cứu, đánh giá chug trong cùng một góc độ
NCNĐT.
1.2.3. Vai trò của NCNĐT trong quá trình CNH-HĐH nền kinh tế đất nước
Không có NCN điện tử hiện đại thì Việt Nam chưa có thể nói là một nước CN vào
đầu năm 2020. CN điện tử là một ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế nói chung,
đặc biệt là đối với mục tiêu CNH-HĐH đất nước. Nó là ngành cơ sở cung cấp các linh
phụ kiện cho hầu hết các ngành then chốt như viễn thông, cơ khí, hoá chất…
Nói đến CNH-HĐH thì không thể thiếu NCN điện tử, nó thể hiện ngành hàng có
17
trình độ công nghệ cao mang tính đột phá. Sự phát triển của ngành điện tử mang lại hiệu
quả kinh tế xã hội to lớn, thúc đẩy sự phát triển của mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống,
bởi vì:
NCN điện tử phát triển, tạo ra một sức phát triển mới trong mọi lĩnh vực sản xuất
và đời sống. Sản xuất ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu sản xuất và nhu cầu vật chất ngày
càng cao cho xã hội.
Ngành tạo ra trang thiết bị cho phát triển CNH-HĐH. Tạo ra sức đột phá về khoa
học kỹ thuật, công nghệ. Thúc đẩy sự hiện đại hóa các NCN khác.

vào một thời đại mới, thời đại của xã hội thông tin và kinh tế tri thức, được hình thành
trên cơ sở phát triển và ứng dụng rộng rãi CN thông tin.
Để phát triển kinh tế tri thức, CNĐT là một trong những động lực quan trọng nhất của
sự phát triển, là yếu tố có ảnh hưởng quan trọng nhất đến sự phát triển kinh tế-xã hội, đảm
bảo an ninh quốc phòng, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. CNĐT được ứng
dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực sẽ thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch
18
cơ cấu kinh tế, thay đổi cơ cấu xã hội, phong cách sống, học tập và làm việc của con người.
CNĐT góp phần tạo ra nhiều ngành nghề mới, làm thay đổi sâu sắc các NCN hiện tại, tăng
khả năng cạnh tranh của các NCN truyền thống. Tại nhiều quốc gia, CNĐT đã trở thành
ngành kinh tế chủ đạo có tốc độ tăng trưởng rất cao, tạo ra nhiều việc làm. Việc ứng dụng
CNĐT trong các hoạt động quản lý nhà nước sẽ giúp cho quá trình ra quyết định được thực
hiện nhanh chóng, kịp thời, và chính xác.
CNTT là công cụ quan trọng hàng đầu để thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ, hình
thành xã hội thông tin, rút ngắn quá trình CNH-HĐH đất nước. Ứng dụng rộng rãi
CNTT là yếu tố có ý nghĩa chiến lược, góp phần tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội
và tăng năng suất, hiệu suất lao động. Ứng dụng CNTT phải gắn với quá trình đổi mới
và bám sát mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, phải được lồng ghép trong các chương
trình quản lý, kinh tế, khoa học công nghệ.
CNĐT là NCN kỹ thuật cao đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp HĐH nền
kinh tế quốc dân và cần được ưu tiên phát triển, lựa chọn một số loại vật liệu, tiến hành
nghiên cứu, tiếp thu công nghệ tiên tiến từ nước ngoài và tổ chức sản xuất vật liệu, linh
kiện cho lắp ráp các thiết bị hoặc XK.
Kinh nghiệm từ nhiều nước CN phát triển trên thế giới cho thấy, NCNĐT luôn
đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung và thực tế đòi hỏi trong quá trình phát
triển hội nhập của Việt Nam cũng đã khẳng định rõ điều đó. Chính vì vậy, Đảng và nhà
nước ta đã thể hiện rõ quan điểm đề cao vai trò của CNĐT trong tiến trình CNH-HĐH
phát triển kinh tế đất nước. Nghị quyết số 07/2000/NQ-CP của Chính phủ và Quyết định
số 128/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ xác định về chiến lược phát triển
CNĐT trong giai đoạn 2001-2005 là: CNĐT và tin học phải đóng vai trò quan trọng

phẩm điện tử mang tính hiện đại, mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc và vật liệu chế tạo
thường xuyên thay đổi nhằm thích nghi, đáp ứng được tính hiếu kỳ và luôn đổi mới của
khách hàng, nhất là điện thoại, computer, tivi... Cùng với những đặc điểm và sản phẩm,
người tiêu dùng rất quan tâm đến chất lượng và giá trị sử dụng của sản phẩm. Giá sản
xuất cũng thường xuyên thay đổi theo hướng giảm xuống, bản thân sản phẩm cũng
nhanh chóng trở nên lạc hậu.
Quá trình phát triển của CNĐT thế giới là xu hướng chuyển dịch đầu tư từ khu vực
kinh tế phát triển sang khu vực kinh tế kém phát triển hơn do có sự chuyển dịch về lợi
thế so sánh. Đầu tiên là từ các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu sang các
nước phát triển ở trình độ thấp hơn như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Xingapo... và
gần đây là các nước ASEAN, Trung Quốc.
Trong buôn bán hàng điện tử, vấn đề nhãn hiệu sản phẩm rất được quan tâm. Giới
tiêu dùng coi nhãn hiệu sản phẩm như một “giấy chứng nhận” chất lượng hàng hoá và
uy tín của nhà sản xuất, thứ đến mới là giá cả. Tuy nhiều nước phải cam kết dỡ bỏ các
rào cản trong buôn bán hàng điện tử theo quy định của WTO, nhưng trên thực tế lại sử
dụng những công cụ phi thương mại để bảo hộ như các tiêu chuẩn về môi trường. Đó là
vấn đề bất lợi cho các nước đang phát triển khi tham gia vào thị trường hàng điện tử thế
giới.
Trong thị trường hàng điện tử dân dụng, thiết bị điện tử dân dụng chiếm khoảng 9-
10% tổng số, trong đó chủ yếu là thiết bị nghe nhìn. Trước thập niên 90 của thế kỷ trước,
Nhật Bản, Tây Âu và Mỹ sản xuất tới 71% thiết bị điện tử dân dụng toàn thế giới (trong đó
Nhật Bản 40%, Tây Âu 18% và Mỹ 13%). Sản xuất, đặc biệt là lắp ráp các thiết bị nghe
nhìn đang có xu hướng chuyển dịch sang các nước khu vực châu Á-TBD. Những năm gần
đây, các nước mới CNH ở châu Á nổi lên như các nước cung cấp thiết bị điện tử dân dụng
giá rẻ hàng đầu thế giới. Giai đoạn 1999-2002, sản xuất thiết bị điện tử dân dụng giảm bình
quân 1,4%/năm ở Nhật Bản và 1,3%/năm ở Mỹ, thì lại gia tăng bình quân 3,6%/năm ở
Trung Quốc, 6,8%/năm ở Trung Quốc. Cũng trong giai đoạn đó, XK thiết bị điện tử dân
dụng chiếm tới 20-30% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng điện tử nói chung của các nước
mới CNH châu Á và gần 50% ở Trung Quốc.
Mỹ đứng đầu thế giới về tiêu thụ thiết bị điện tử dân dụng, tiếp đến là Nhật Bản, Đức,

thị trýờng linh kiện ðiển tử là linh kiện bán dẫn. Một ðặc trýng của ngành sản xuất linh
kiện bán dẫn là tính tập trung cao. Do ðó ðòi hỏi vốn đầu tư lớn cho nghiên cứu, thiết
kế, chế tạo, nên chủ yếu được sản xuất tại các nước phát triển, còn lắp ráp được thực
hiện ở các nước khác.
Nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm trong 5 năm 1998-2002 tăng trung bình 13%/năm.
Buôn bán sản phẩm điện tử là một trong những lĩnh vực phát triển mạnh nhất trong 20
năm qua, từ 500 tỷ USD năm 1992 lên 1 nghìn tỷ USD năm 2002.
Những tiến bộ về công nghệ và sự thay đổi về yêu cầu đối với máy tính (yêu cầu
về lưu trữ giảm đi, trong khi yêu cầu về tính tiện dụng tăng lên). Vì thế, các nhà sản
xuất đang hướng tới việc thay thế các máy tính cồng kềnh bằng các thiết bị nhỏ gọn hơn
những vẫn thực hiện được hầu hết các chức năng chủ yếu. Cùng với những thay đổi
trong cơ cấu sản xuất và mức độ cạnh tranh ngày càng tăng khi sự đan xen giữa các
hãng sản xuất thiết bị xử lý dữ liệu (EDP) và thiết bị điện tử dân dụng trở nên phổ biến,
các phương thức buôn bán trên thị trường sản phẩm điện tử ngày càng có nhiều thay
đổi. Các sản phẩm máy tính chuyên dụng với các đối tượng tiêu dùng đặc biệt, loại bỏ
các chức năng thông thường của máy tính đa dạng nhằm hướng tới các nhóm tiêu dùng
khác nhau, đang là hướng đi của hầu hết các hãng sản xuất sản phẩm điện tử hàng đầu
thế giới.
Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn do sức ép cạnh tranh ngày càng lớn, chi phí
sản xuất tăng trong khi giá bán 1 đơn vị sản phẩm đang có chiều hướng giảm, thị trường
hàng điện tử thế giới vẫn được dự báo là có triển vọng sáng sủa và duy trì chu kỳ tăng
21
trưởng trong năm 2003 cùng với sự phục hồi chung của kinh tế thế giới. Theo thông tin
của Tập đoàn dữ liệu quốc tế (IDC) và SIA, thị trường linh kiện bán dẫn - nền tảng của
CNĐT có mức tăng trung bình 14% trong giai đoạn 1998-2002, trong đó một số thị
trường tăng khá như Mỹ tăng 21% năm 2001 và 11% năm 2002, Nhật Bản tăng tới 16%
và 10%, EU 20% và 11%, đặc biệt khu vực châu Á-Thái Bình Dương tăng tới 23% và
14% trong thời gian tương ứng.
Cho tới nay, Mỹ vẫn là nước đứng đầu thế giới về CNĐT, tin học, viễn thông. Giá
trị sản lượng ngành này đứng thứ 2 trong nền kinh tế Mỹ, Mỹ cũng là nước cung cấp

tiêu thụ hàng điện tử có xu hướng tăng trong khi tiêu thụ thiết bị điện tử dân dụng giảm
đi, đặc biệt là ở các nước phát triển. Các nước đang phát triển vẫn có tốc độ tăng tiêu
thụ thiết bị điện tử dân dụng cao, chủ yếu là các sản phẩm thế hệ thứ hai với giá rẻ.
Samsung đang dẫn đầu thế giới về sản xuất con chíp, màn hình phẳng LCD và tivi màu.
Samsung cũng đang cạnh tranh quyết liệt với Motorola để trở thành nhà sản xuất điện
thoại di động thứ hai thế giới.
22
Hầu như không có một tuần lễ nào trôi qua mà Samsung không công bố một sản
phẩm nào đó thuộc hàng “đầu tiên trên thế giới” hoặc “lớn nhất thế giới” hoặc gì đó
tương tự. Samsung đang có nhiều phát minh đăng ký tại Mỹ, năm 2004 là 1.600 phát
minh sáng chế được đăng ký, hơn cả Intel.
Đầu mùa hè này, Công ty nghiên cứu thị trường của Anh quốc Interbrand đã tính
toán và kết luận lần đầu tiên giá trị thương hiệu toàn cầu của Samsung vượt qua cả
Sony. Nó cho thấy mức tăng trưởng vượt bậc mà chưa có một thương hiệu của một
công ty toàn cầu nào đạt được.
Về giá cả: ASEAN cũng như giá của hàng điện tử trên thế giới đang tiếp tục giảm.
Bên cạnh đó, nhiều mặt hàng công nghệ mới tiếp tục "phủ định"các mặt hàng công
nghệ, model cũ cũng khiến cho nhóm hàng công nghệ cũ tiếp tục giảm giá.
Các linh kiện bán dẫn là nền tảng của CNĐT có tỉ trọng ngày càng tăng trong tổng
giá trị thiết bị điện tử (khoảng 50% trị giá linh kiện nói chung). Nhật Bản và Mỹ là
những nước đứng đầu về cung cấp các sản phẩm bán dẫn.
Sự phát triển của khoa học và công nghệ đã, đang và sẽ dẫn đến những thay đổi
nhanh chóng của các sản phẩm điện tử và tạo ra sự kết hợp đan xen giữa lĩnh vực sản
xuất thiết bị xử lý dữ liệu với thiết bị điện tử dân dụng và thiết bị điện tử CN. Tuy
nhiên, thị trường hàng điện tử vẫn tiếp tục chịu sự chi phối của thị trường trường linh
kiện. Các yếu tố cung - cầu về linh kiện điện tử đóng vai trò quan trọng trong việc hình
thành động thái thị trường hàng điện tử trong những năm tới.
1.3. Kinh nghiệm nâng cao sức cạnh tranh của NCNĐT một số nước trên thế giới
1.3.1. Thực tiễn sức sản xuất các mặt hàng điện tử của một số nước
1.3.1.1. Hàn Quốc

cao, đối với các khu vực nông thôn với địa bàn rộng lớn thì các modem tốc độ thấp
thường được sử dụng phổ biến hơn. Để tăng số lượng thuê bao, việc tiếp thị giới thiệu
các dịch vụ là rất cần thiết, đồng thời việc cung cấp nội dung phong phú có vai trò hết
sức quan trọng. Kế hoạch phát triển CNTT của Hàn Quốc trong thời gian hiện nay là:
tiếp tục triển khai dịch vụ WCDMA ở khu vực đô thị Seoul và xung quanh, dịch vụ
Internet vô tuyến 2,3 GHz (năm 2005), truyền hình số băng rộng phủ sóng toàn quốc
(năm 2006)...Trong chiến lược phát triển CNTT, Hàn Quốc đặc biệt quan tâm đến kế
hoạch đầu tư cho nghiên cứu phát triển.
Lựa chọn công nghệ phù hợp với năng lực của nền kinh tế. Để lựa chọn được công
nghệ phù hợp, ngoài việc hoàn thiện luật pháp về đầu tư và phát triển công nghê, người ta còn
phải có một đội ngũ cán bộ có khả năng đánh giá các phương án công nghệ. Ví dụ, Chính
phủ Hàn Quốc đã cho ra đời một hệ thống các cơ quan (bao gồm các nhà khoa học, các cán
bộ quản lý tài năng được đào tạo cẩn thận và có lương cao) phục vụ cho việc tìm kiếm và lựa
chọn, đàm phán, muavà sau đó nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ. Chính vì vậy
mà nước này đã du nhập được những công nghệ thích hợp và khai thác hiệu quả của chúng.
Trường hợp chuyển giao công nghệ thành công điển hình là nhà máy gang thép Pohang ở
QuangDu. Tuy được xây dựng từ năm 1984-1988, nhưng do lựa chọn công nghệ sản xuất và
quản lý tốt và tổ chức đấu thầu thành công, nên đến nay nhà máy này vẫn là cơ sở sản xuất
gang thép hiện đại, được xây dựng với giá thành hạ nhất có chất lượng thép tốt hàng đầu thế
giới. Kết quả là một tấn thép chất lượng tương đương sản xuất ở Hàn Quốc có giá thành chỉ
bằng ½ giá thành sản xuất ở Mỹ
1.3.1.2. Ấn Độ
Với mục tiêu đưa Ấn Độ trở thành siêu cường quốc về CNTT của thế giới trong
thế kỷ XXI, Chính phủ Ấn Độ đã chọn phát triển CNTT đây được coi là NCN mũi
nhọn. Từ năm 1996, Ấn Độ đã thực thi kế hoạch phát triển toàn diện ngành IT, đặc biệt
là phần mềm máy tính. Tiêu chí được đưa ra là: “CN phần mềm Ấn Độ là kiểu mẫu của
sức mạnh và thành công”. Hiện nay, tổng giá trị XK của ngành CNTT Ấn Độ chiếm
khoảng 35% tổng giá trị XK của nền kinh tế, chiếm 75% GDP, khoảng 200 trong tổng
số 500 công ty lớn nhất của Mỹ đã mua các sản phẩm phần mềm của Ấn Độ. Ấn Độ đã
XK phần mềm máy tính sang hơn 75 nước trên thế giới, với tốc độ tăng trưởng

thành lập Bộ Công nghệ thông tin thay thế Cục Công nghệ thông tin và điện tử. Bộ
Công nghệ thông tin Ấn Độ đã đề ra kế hoạch hành động tổng thể, nhằm đưa Ấn Độ
thành một siêu cường quốc về CNTT. Bộ trưởng Bộ Công nghệ thông tin Ấn Độ cho
biết, chủ trương cải cách của Chính phủ Ấn Độ là tập trung vào việc sử dụng mạng
thông tin quốc tế, sử dụng ngôn ngữ Ấn Độ, thúc đẩy các dịch vụ và đào tạo cán bộ về
CNTT, khai thác thương mại điện tử và các xí nghiệp sản xuất thông tin quốc tế.
Kế hoạch hành động CNTT đã được Chính phủ Ấn Độ thông qua, gồm 3 phần:
- Phần I: Tậo trung vào xây dựng CS, nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư
vào lĩnh vực CNTT, đặc biệt vào NCN phần mềm. Cụ thể: Xây dựng cơ sở hạ tầng
CNTT tiêu chuẩn với mạng lưới cáp quang vệ tinh và thông tin di động trên toàn quốc,
bảo đảm sự kết nối thông suốt giữa cơ sở hạ tầng thông tin địa phương với cơ sở hạ tầng
quốc gia và cơ sở hạ tầng thông tin toàn cầu, giúp việc truy cập mạng Internet cũng như
các mạng ngoại vi và mạng nội bộ với tốc độ cao, đề ra các biện pháp nhằm nâng cao
nhận thức của người dân về CNTT, phổ cập giáo dục CNTT, tin học hóa bộ máy của
Chính phủ, phát triển kinh tế dựa trên CNTT, ứng dụng CNTT vào các vùng nông thôn,
từng bước đa dạng hóa các dịch vụ IT như: ngân hàng điện tử, bệnh viện điện tử, giáo
dục điện tử, thư viện điện tử, thương mại điện tử, các trung tâm thông tin viễn thông...
vào trong đời sống hàng ngày, đồng thời đào tạo đội ngũ chuyên gia CNTT đạt tiêu
chuẩn quốc tế về chất lượng và số lượng.
- Phần II: Tập trung vào phát triển sản xuất và XK phần cứng thuộc lĩnh vực
CNTT. Cụ thể: Chính phủ Ấn Độ sẽ quy hoạch các KCN phần cứng, tạo điều kiện thuận
25

Trích đoạn KẾT LUẬN 85 Tác dụng của Định luật Moore
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status