Hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2) - Pdf 24

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan
trọng trong quá trình điều hành các hoạt động của nền kinh tế. Tuy nhiên,
chính sách tiền tệ thực sự có ý nghĩa và thể hiện đúng vai trò vị trí của mình
hay không lại phụ thuộc vào quá trình sử dụng các công cụ để thực thi chính
sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Để thực hiện vai trò và trách nhiệm đã
được quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam đã sử dụng các công cụ tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ
bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở.
Sau một thời gian dài chuẩn bị về hàng lang pháp lý, trang thiết bị, nhân
lực, … nghiệp vụ thị trường mở đã được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
chính thức khai trương vào ngày 12/7/2000. Trải qua hơn 5 năm hoạt động,
nghiệp vụ thị trường mở đã được thực hiện an toàn, góp phần quan trọng vào
việc điều tiết và kiểm soát lượng tiền cung ứng của Ngân hàng Nhà nước. Tuy
nhiên, cũng như các công cụ chính sách tiền tệ khác của Ngân hàng nhà nước,
nghiệp vụ thị trường mở đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Số lượng các tổ
chức tín dụng tham gia ít, doanh số giao dịch nhỏ, hàng hoá giao dịch chưa
nhiều, các quy định về quy trình, xử lý thông tin còn chưa hoàn thiện. Vì vậy,
nhu cầu đổi mới và hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trưởng mở là hết sức cấp
bách và cần thiết. Nhận thức được điều dó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Hoàn
thiện nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” để làm
đề tài nghiên cứu của Luận văn.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về chính sách tiền tệ, công cụ chính
sách tiền tệ và nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng trung ương.
- Phân tích, đánh giá hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam từ năm 2000 đến nay.
- Đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

vậy, CSTT đóng vai trò là một bộ phận quan trọng và không thể thiếu trong
hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
1.1.1. Khái niệm về chính sách tiền tệ
CSTT là một chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó NHTW sử dụng các
công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát các điều kiện tiền tệ của nền kinh
tế nhằm đảm bảo sự ổn định giá trị tiền tệ, tạo nền tảng thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế và duy trì các mục tiêu xã hội hợp lý.
Theo nghĩa rộng, CSTT là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền
tệ trong nền kinh tế nhằm phân bổ một cách hiệu quả nhất các nguồn lực
nhằm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, cân đối kinh tế trên cơ sở đó ổn
định giá trị đồng tiền quốc gia. Theo nghĩa hẹp, CSTT là chính sách đảm bảo
sao cho khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong một năm tương ứng với
mức tăng trưởng kinh tế và chỉ số lạm phát nhằm ổn định giá trị của đồng
tiền, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
NHTW có vai trò rất quan trọng trong việc quyết định các vấn đề liên
quan đến CSTT vì mọi hoạt động của NHTW và hệ thống ngân hàng đều ảnh
hưởng đến hệ thống điều kiện tiền tệ của nền kinh tế được thể hiện qua các
chỉ tiêu như khối lượng tiền, tín dụng, lãi suất, tỷ giá … Vì thế công tác xây
dựng và điều hành CSTT là trọng tâm hoạt động của một NHTW.
1.1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Nội dung của CSTT thể hiện thông qua việc thiết kế hệ thống mục tiêu
của CSTT trong từng thời kỳ bao gồm các mục tiêu tổng quát và hệ thống
mục tiêu điều hành.
3
1.1.2.1. Mục tiêu tổnq quát (mục tiêu cuối cùng)
Mục tiêu CSTT hầu như thống nhất ở các nước. Sự điều chỉnh lượng tiền
cung ứng nhằm mục tiêu trước hết là ổn định giá trị tiền tệ, trên cơ sở đó góp
phần tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Ngoài các mục tiêu vĩ mô
trên, một số nước còn tập trung vào các mục tiêu cụ thể, tuỳ thuộc vào đặc
điểm kinh tế phát triển đặc thù quốc gia. Tuy nhiên do tính chất mâu thuẫn

suất và ngược lại.
b, Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu hoạt động là các chỉ tiêu có phản ứng tức thời với sự điều chỉnh
của công cụ CSTT đồng thời có mối quan hệ chi phối tới các mục tiêu trung
gian. Việc lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thích hợp làm mục tiêu hoạt động có ý
nghĩa quan trọng quyết định hiệu quả tác động của CSTT. Hệ thống chỉ tiêu
này vừa đóng vai trò phản ánh tình trạng CSTT đồng thời phản ánh dấu hiệu
về định hướng CSTT của NHTW.
Các tiêu chuẩn lựa chọn chỉ tiêu làm mục tiêu hoạt động cũng tương tự
như tiêu chuẩn lựa chọn mục tiêu trung gian, bao gồm: (1) Phải đo lường
được nhằm tránh những suy diễn thiếu chính xác làm sai lệch dấu hiệu của
CSTT; (2) Phải có mối quan hệ trực tiếp và ổn định với các công cụ của
CSTT; (3) Phải có mối quan hệ chặt chẽ và ổn định với mụcc tiêu trung gian
được lựa chọn. Căn cứ vào tiêu chuẩn trên, các chỉ tiêu thường được lựa chọn
làm mục tiêu hoạt động của NHTW bao gồm: lãi suất liên ngân hàng và dự
trữ ngân hàng.
1.1.3. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ
Để thực hiện CSTT theo các mục tiêu đã xác định trong từng thời kỳ,
NHTW sử dụng một số công cụ CSTT nhằm tác động đến khối lượng tiền trong
lưu thông và lãi suất (chi phí) vay vốn. Công cụ CSTT là các hoạt động được thực
hiện trực tiếp bởi NHTW nhằm tác động trực tiếp tới các mục tiêu hoạt động, qua
đó ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới mục tiêu trung gian, từ đó đạt được các
mục tiêu cuối cùng của CSTT.
1.1.3.1. Các công cụ chủ yếu
Đây là nhóm công cụ tác động trước hết vào các mục tiêu hoạt động của
CSTT như lãi suất thị trường liên ngân hàng, dự trữ không vay, dự trữ đi vay, …
và thông qua cơ chế thị trường mà tác động này truyền tới các mục tiêu trung gian
là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất. Nhóm công cụ này bao gồm:
a, Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc (DTBB) là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì trên

Nghiệp vụ thị trường mở (OMO) là hoạt động NHTW mua, bán GTCG
như tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, tín phiếu NHTW, chứng chỉ tiền
gửi ... trên thị trường tiền tệ, nhằm làm thay đổi cơ số tiền tệ mà đặc biệt là
tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng, qua đó tác động đến khối lượng tiền
cung ứng. Do vậy, thị trường này có khả năng tiếp nhận được một lượng rất
6
lớn nghiệp vụ của NHTW mà không làm cho giá cả biến động mạnh.
OMO là công cụ CSTT quan trọng của NHTW. Nghiệp vụ này là yếu tố
quyết định quan trọng nhất đối với những thay đổi trong cơ số tiền tệ và đó
cũng là nguồn gốc chính gây nên những biến động trong cung ứng tiền tệ.
OMO là một trong những cửa ngõ quan trọng để NHTW phát hành tiền
vào lưu thông hoặc rút bớt tiền trong lưu thông về thông qua mua hay bán các
các loại GTCG. Qua nghiệp vụ mua bán này NHTW làm tăng hay giảm dự
trữ của các NHTM, tác động đến khả năng tín dụng của các ngân hàng này và
từ đó làm tăng hay giảm lượng tiền cung ứng.
1.1.3.2. Các công cụ bổ trợ
Bên cạnh những công cụ chủ yếu nêu trên thì NHTW còn sử dụng các công
cụ bổ trợ để thực hiện CSTT.
a, Lãi suất
Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện CSTT trong điều khiển
mức cung ứng tiền cho nền kinh tế, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay
giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Sự biến động của lãi suất có thể kích
thích hoặc kìm hãm sản xuất. Do vậy, lãi suất là một công cụ quan trọng của
NHTW trong thực hiện CSTT.
Thông qua chính sách chiết khấu đối với các ngân hàng, NHTW thực hiện
quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của các ngân hàng đối với nền kinh tế. Khi muốn
điều chỉnh lãi suất của các ngân hàng, NHTW điều chỉnh các lãi suất của mình, từ
đó tác động đến lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, cuối cùng sẽ tác
động đến lãi suất huy động, cho vay của các ngân hàng. Ngoài ra, NHTW có thể
quản lý trực tiếp lãi suất của các TCTD đối với nền kinh tế thông qua quy định

1.2. NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
1.2.1. Khái niệm
Theo cách hiểu chung nhất thì khái niệm “Nghiệp vụ thị trường mở” là
hoạt động mua bán các GTCG của NHTW với các đối tác được lựa chọn để
qua đó tác động tới lãi suất của thị trường hoặc dự trữ của các đối tác này, vì
thế có thể ảnh hưởng tới các điều kiện tiền tệ của nền kinh tế thông qua những
ảnh hưởng về mặt lượng và giá cả. Thuật ngữ "Thị trường mở" ở đây được
hiểu là một thị trường có tính chất mở, nghĩa là đa dạng về các đối tác tham
gia thị trường và đa dạng về các loại giao dịch trên thị trường.
Nghiệp vụ thị trường mở (OMO) được Ngân hàng Anh áp dụng đầu tiên
từ năm 1914 trong nỗ lực tìm kiếm công cụ có hiệu quả hơn để điều chỉnh lãi
suất thị trường theo hướng mong muốn.
OMO là một trong các công cụ CSTT có hiệu quả cao và hiện đang được
8
các nước trên thế giới sử dụng. Mặc dù OMO được sử dụng phổ biến nhưng
việc đưa ra một khái niệm chung là không thống nhất. Sự không thống nhất
này thể hiện ở sự khác nhau về hàng hoá giao dịch, các đối tác tham gia thị
trường và các loại giao dịch trên thị trường.
Các GTCG được sử dụng trên thị trường mở là các GTCG ngắn hạn và
dài hạn như tín phiếu, trái phiếu chính phủ, tín phiếu NHTW, trái phiếu doanh
nghiệp, trái phiếu ngân hàng v.v.. Các chủ thể của thị trường mở là NHTW và
các đối tác chủ yếu là các ngân hàng, và có thể là các tổ chức tài chính, tín
dụng phi ngân hàng.
Xét về mặt hình thức, thị trường mở là thị trường giao dịch các chứng
khoán nợ cả ngắn hạn và dài hạn. Tuy nhiên khác với các khái niệm có phạm
vi và loại hình công cụ rõ ràng như thị trường chứng khoán hay thị trường
tiền tệ, thị trường mở ở các nước khác nhau lại khác nhau về phạm vi, loại
hình công cụ và thời hạn của các công cụ giao dịch trên thị trường. Đối với
một số nước, hàng hoá giao dịch trên thị trường mở chỉ gồm các GTCG ngắn
hạn và đối tác tham gia chỉ là các TCTD. Khi đó, thị trường mở là một bộ

b, Về mặt giá - Tác động qua lãi suất
Hành vi mua bán GTCG của NHTW trên thị trường mở có thể ảnh
hưởng gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua 2 con đường sau:
Thứ nhất, khi dự trữ của ngân hàng bị ảnh hưởng sẽ tác động đến cung
cầu vốn NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Đến lượt nó, cung cầu
tiền trung ương thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi.
Mức lãi suất ngắn hạn này, thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt
động arbitrage về lãi suất, sẽ truyền tác động tới các mức lãi suất trung và dài
hạn trên thị trường tài chính. Tại một mức lãi suất thị trường xác định, tổng
cầu AD của nền kinh tế, và do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết
định.
Sơ đồ 1.2. Cơ chế tác động của OMO qua lãi suất
10
NHTW
bán
GTCG
Dự trữ
NH
giảm
Dự trữ mở
rộng cho
vay giảm
Khối
lượng TD
giảm
MS
giảm
Cung TPKB
tăng
NHTW bán

vốn đầu tư, lãi suất thị trường sẽ tăng lên. Khi lãi suất thị trường tăng lên thì
hoạt động đầu tư của các chủ thể đối với nền kinh tế sẽ giảm xuống do tỷ suất
sinh lời giảm. Từ đó tổng cầu trên thị trường giảm xuống và góp phần làm
giảm sản lượng, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng.
1.2.3. Vai trò và sự cần thiết của nghiệp vụ thị trường mở
1.2.3.1. Đối với ngân hàng trung ương
Để thực hiện nhiệm vụ ổn định giá trị đồng tiền, NHTW đã xây dựng và
thực thi các công cụ CSTT nhằm đưa tiền ra và rút tiền về từ lưu thông theo
tín hiệu thị trường. Trong đó, OMO là công cụ CSTT gián tiếp quan trọng
nhất tại nhiều quốc gia làm thay đổi cung - cầu tiền tệ dẫn đến thay đổi lãi
suất trên thị trường tiền tệ. Thông qua việc mua bán GTCG tại thị trường mở,
NHTW có thể mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tiền dự trữ trong hệ thống
ngân hàng và tác động một cách tốt nhất đến cơ số tiền tệ, lượng tiền cung
ứng. Như vậy, OMO đã tạo điều kiện cho NHTW hạn chế sử dụng các công
11
cụ mang tính trực tiếp trong điều hành CSTT.
Bên cạnh mục đích điều tiết vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng,
thông qua mua bán GTCG trên thị trường mở, NHTW còn cấp tín hiệu cho thị
trường về định hướng điều hành CSTT trong tương lai là nới lỏng hay thắt
chặt. Đặc biệt khi thực hiện OMO thường xuyên và hiệu quả, lãi suất thị
trường mở có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định hướng, chỉ đạo lãi suất
thị trường và qua đó NHTW có thể hạn chế những biến động của lãi suất thị
trường.
OMO là một công cụ CSTT có tính chủ động cao. OMO do NHTW chủ
động khởi xướng, khác với các nghiệp vụ cho vay hỗ trợ vốn khác của
NHTW thường do các ngân hàng có nhu cầu vay vốn chủ động khởi xướng.
Như vậy, NHTW có thể chủ động thực hiện OMO theo định kỳ hoặc vào các
thời điểm cần thiết. OMO có thể được thực hiện linh hoạt xét trên góc độ về
khối lượng cũng như thời gian giao dịch. NHTW có thể thực hiện OMO ở quy
mô lớn/nhỏ (khối lượng mua bán GTCG lớn/nhỏ) với thời hạn dài/ngắn tuỳ

hướng tích cực cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng, làm giảm dự trữ không
sinh lợi và cải thiện bảng tổng kết tài sản của ngân hàng.
Ngoài ra, OMO góp phần đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh của các
TCTD. Các TCTD không chỉ đơn thuần thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh
truyền thống như cho vay, bảo lãnh, dịch vụ … mà còn sử dụng một nguồn
vốn nhất định để thực hiện nghiệp vụ kinh doanh mới là mua bán các GTCG.
OMO cũng thúc đẩy các mối quan hệ mang tính kinh doanh giữa các thành
viên tham gia thị trường.
OMO do các ngân hàng tự nguyện tham gia thực hiện theo các nguyên
tắc thị trường, không mang tính chất bắt buộc như DTBB và cũng không có
tác động như một hình thức "đánh thuế" đối với hoạt động của các ngân hàng
như DTBB. Lãi suất trên thị trường mở cũng mang tính chất thị trường chứ
không bị áp đặt như trong công cụ chiết khấu GTCG của NHTW.
Như vậy, thị trường mở tạo điều kiện cho các ngân hàng sử dụng nguồn
vốn tạm thời nhàn rỗi hiệu quả hơn và đa dạng hoá thêm các nghiệp vụ kinh
doanh của các ngân hàng.
1.2.3.3. Đối với nền kinh tế
Mặc dù thành viên của OMO chủ yếu là các tổ chức tín dụng, tài chính
và NHTW nhưng OMO cũng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế.
Thông qua việc phát hành, mua bán GTCG trên thị trường mở, các chủ
thể của thị trường mở đã làm tăng thêm tính thanh khoản cho các GTCG này.
13
Điều này góp phần thúc đẩy các thị trường tài chính phát triển. Từ đó, tạo
điều kiện cho các trung gian tài chính thu hút vốn trong nền kinh tế và thay
đổi thói quen tiết kiệm, tiêu dùng của các hộ gia đình trong nền kinh tế.
Thị trường mở có sự gắn kết chặt chẽ với các thị trường tiền tệ, đặc biệt
là thị trường nội tệ liên ngân hàng. Sự phát triển của thị trường mở tác động
mạnh đến sự hoàn thiện và phát triển của thị trường liên ngân hàng.
Mặt khác, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình mở cửa và hội nhập
vào nền kinh tế thế giới. Việt Nam phải thực hiện các cam kết yêu cầu của các

a. Các ngân hàng thương mại
Các NHTM là thành viên chủ yếu tham gia OMO của NHTW và là đối
tác quan trọng của NHTW xét trên 2 phương diện độ tin cậy và tính hiệu quả.
Các NHTM tham gia thị trường nhằm điều hoà vốn khả dụng để đảm bảo khả
năng thanh toán và đầu tư các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để hưởng lãi.
Sự tham gia của các NHTM trong các giao dịch OMO có ý nghĩa quan
trọng xét trên góc độ hiệu quả CSTT do: (i) NHTM là trung gian tài chính lớn
nhất, có mạng lưới hoạt động rộng. NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc
cung ứng vốn cho nền kinh tế, nhất là ở các nước đang phát triển; (ii) Hơn
nữa NHTM vừa là người đi vay, vừa là người cho vay trên thị trường tiền tệ.
b. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng
Tại một số quốc gia, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng được tham
gia OMO. Các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tư, hội tiết kiệm
… coi thị trường mở như là nơi kiếm thu nhập thông qua việc sử dụng vốn
nhàn rỗi để mua bán các GTCG.
c. Các nhà giao dịch sơ cấp
Các nhà giao dịch sơ cấp tham gia vào OMO với tư cách là người trung
gian trong việc mua bán các GTCG giữa NHTW và các đối tác khác. Các nhà
giao dịch sơ cấp có thể là các NHTM, công ty chứng khoán, công ty tài chính.
Thực tế ở nhiều nước, 70% giao dịch can thiệp của NHTW trên thị trường mở
được thực hiện thông qua các nhà giao dịch sơ cấp. Khi đó, NHTW chỉ thực
hiện mua bán GTCG với các nhà giao dịch sơ cấp. Và để thực hiện được vai
trò này, các nhà giao dịch sơ cấp phải có nguồn vốn đủ mạnh đáp ứng yêu cầu
quy định của NHTW và phải sẵn sàng thực hiện vai trò người tạo lập thị
trường trong tất cả các phiên đấu thầu tín phiếu kho bạc.
1.2.5. Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở
Các loại GTCG được sử dụng trong các giao dịch OMO ở các nước có
khác nhau. Tại Anh, Mỹ, OMO được hiểu là nghiệp vụ mua bán các chứng
khoán Chính phủ của NHTW nhưng chủng loại các GTCG của Chính phủ
15

tác trên thị trường mở sẽ tập trung mua loại tín phiếu có lãi suất cao hơn. Khi
đó sẽ có sự phân khúc giữa thị trường tín phiếu kho bạc và thị trường tín
16
phiếu NHTW, làm cho mục đích phát hành các GTCG này không đạt được và
có thể làm giảm hiệu quả tác động của 2 loại hàng hoá này.
1.2.5.3. Trái phiếu Chính phủ
Trái phiếu chính phủ là giấy nhận nợ dài hạn do Chính phủ phát hành
nhằm mục đích huy động vốn cho ngân sách. Mặc dù là GTCG dài hạn có
thời hạn lên đến 10-30 năm nhưng trái phiếu Chính phủ được sử dụng khá
rộng rãi trong các giao dịch OMO ở một số nước bởi tính an toàn, ổn định
trong phát hành và khối lượng phát hành thường lớn, có khả năng tác động
trực tiếp giá cả trên thị trường tài chính.
1.2.5.4. Trái phiếu Chính quyền địa phương
Tương tự như trái phiếu Chính phủ, nhưng trái phiếu chính quyền địa
phương khác về thời hạn và các điều kiện ưu đãi về thuế thu nhập từ trái
phiếu và thường do các chính quyền địa phương lớn phát hành. Sự can thiệp
của NHTW thông qua việc mua bán loại trái phiếu này cũng tương tự như trái
phiếu Chính phủ.
1.2.5.5. Chứng chỉ tiền gửi
Chứng chỉ tiền gửi (CD) là giấy nhận nợ của ngân hàng hay tổ chức tài
chính phi ngân hàng phát hành, xác nhận một món tiền đã được gửi vào ngân
hàng với một kỳ hạn và lãi suất nhất định. Thời hạn của CD có thể từ 7 ngày
đến 7 năm nhưng thường là ngắn hạn. CD được sử dụng khá phổ biến trên thị
trường tiền tệ do các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền khi cần
thiết mà không phải rút tiền gửi trước hạn.
1.2.6. Phương thức giao dịch của nghiệp vụ thị trường mở
1.2.6.1. Các loại giao dịch của nghiệp vụ thị trường mở
Có 2 loại giao dịch trên thị trường mở là giao dịch không hoàn lại (mua
bán hẳn) và giao dịch (mua bán) có kỳ hạn.
a, Giao dịch không hoàn lại (mua bán hẳn)

công bố trước. NHTW công bố khối lượng tiền cần mua hoặc cần bán bằng
phương thức đấu thầu và ấn định mức lãi suất thực hiện. NHTW công bố điều
kiện đặt thầu để các thành viên đăng ký số tiền dự thầu trên cơ sở chấp thuận
mức lãi suất đã xác định trước. Sau khi mở thầu NHTW sẽ xác định tỷ lệ giá
trị đạt thầu và phân bổ cho từng tổ chức tham gia đặt thầu.
Việc phân bổ thầu được tiến hành thực hiện như sau: Trước hết toàn bộ
số lượng đăng ký dự thầu được cộng lại với nhau. Nếu tổng khối lượng đặt
thầu nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng NHTW chào mua/chào bán thì toàn bộ
các đơn dự thầu đều được phân bổ theo khối lượng đặt thầu. Nếu tổng khối
lượng đặt thầu lớn hơn khối lượng NHTW chào mua/chào bán thì khối lượng
18
trúng thầu của từng thành viên được phân bổ tỷ lệ thuận với khối lượng đặt
thầu của thành viên đó. Các đơn dự thầu sẽ được phân bổ như sau:
Tỷ lệ % phân bổ thầu: k = A/
1
n
i
i
b
=

trong đó:
- A: là khối lượng NHTW chào mua/chào bán
- n: là tổng số thành viên tham gia dự thầu
- b
i
là khối lượng đặt thầu của thành viên thứ i
- k là tỷ lệ phân bổ thầu
Trên cơ sở xác định được tỷ lệ k, khối lượng trúng thầu của thành viên
thứ i (W

) là tổng khối lượng đặt thầu của các thành viên ứng với mức
lãi suất r
t

- r
m
là mức lãi suất cuối cùng được chấp nhận.
Đối với trường hợp NHTW đấu thầu để bơm thêm vốn khả dụng cho hệ
thống ngân hàng thì: r
1


r
t


r
m

- k(r
m
) là tỷ lệ % trúng thầu được phân bổ tại mức lãi suất cuối cùng
k(r
m
) =
A -
1
1
( )
m

lãi suất đã đăng ký. Nếu đấu thầu theo kiểu Hà Lan thì tất cả lượng đặt thầu
được xác định cùng mức lãi suất đạt thầu.
1.2.7. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự vận hành nghiệp vụ thị trường
mở của Ngân hàng trung ương
OMO là một công cụ CSTT có tính chất tự nguyện theo các nguyên tắc
thị trường và linh hoạt nên sự vận hành của OMO phụ thuộc nhiều vào các
yếu tố xuất phát từ bản thân NHTW và từ các thành viên thị trường.
1.2.7.1. Nhân tố chủ quan
a. Dự báo về vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng
Với vai trò tổ chức, xây dựng và điều hành các hoạt động OMO, trên cơ sở
dự báo các diễn biến tiền tệ, tình hình vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng,
NHTW quyết định thời điểm, khối lượng chào mua-bán GTCG, thời hạn và
phương thức giao dịch OMO nhằm điều tiết thị trường tiền tệ theo mục tiêu đã
xác định.
Khi dự báo vốn khả dụng dư thừa trong ngắn hạn, NHTW sẽ thực hiện các
phiên chào bán GTCG hoặc phát hành tín phiếu NHTW nhằm thu hút và hấp thụ
vốn khả dụng dư thừa của hệ thống ngân hàng. Trường hợp dự báo vốn khả dụng
thiết hụt thì NHTW sẽ thực hiện chào mua GTCG hoặc chứng chỉ tiền gửi để
cung ứng vốn cho hệ thống ngân hàng. Vì vậy, việc quyết định thực hiện các
phiên giao dịch OMO và kết quả giao dịch OMO phụ thuộc rất nhiều vào độ
chính xác của việc dự báo vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng. Nếu việc dự báo
vốn khả dụng của NHTW phù hợp với thực tế diễn biến thị trường thì khả năng
tham gia phiên giao dịch OMO của các ngân hàng sẽ cao hơn. Nếu dự báo sai
hoặc ngược chiều thì kết quả giao dịch OMO sẽ rất thấp hoặc không có đối tác
nào khác tham gia giao dịch OMO.
20
b, Các quy định về nghiệp vụ thị trường mở
Nhìn chung, nghiệp vụ thị trường mở rất đa dạng về hình thức giao dịch,
hàng hoá giao dịch, tần suất giao dịch, đối tác giao dịch, kỳ hạn giao dịch. Các
quy định về OMO này đều có tác động nhất định đến sự vận hành của OMO.

mình, các ngân hàng có thể thực hiện việc bán các GTCG, vay từ các tổ chức tài
chính, tín dụng khác trên thị trường vốn hoặc vay từ NHTW. Việc giao dịch trên
thị trường mở phụ thuộc vào khả năng đáp ứng nhu cầu thanh khoản của ngân
hàng thông qua thị trường tiền tệ và thường được lựa chọn cuối cùng bởi vì các lý
do phi kinh tế. Khả năng tìm kiếm các nguồn vốn khác của ngân hàng phụ thuộc
nhiều vào trình độ phát triển của thị trường tiền tệ quốc gia.
Chính vì vậy, nếu ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu thanh khoản của
mình trên thị trường tiền tệ qua việc huy động các nguồn vốn mới, bán các tài sản,
vay các ngân hàng khác, … hoặc thông qua các công cụ khác thì việc giao dịch
OMO tại NHTW sẽ giảm thiểu. Khi đó khả năng tác động của OMO sẽ bị hạn
chế.
b. Hàng hoá thị trường mở do các ngân hàng nắm giữ
Để tham gia thị trường mở, nhất là khi cần bổ sung nguồn vốn, các ngân
hàng phải nắm giữ một lượng hàng hoá nhất định về cả khối lượng và chủng loại
phù hợp với điều kiện và nhu cầu giao dịch của NHTW. Chỉ khi các hàng hoá
nắm giữ của ngân hàng phù hợp với nhu cầu giao dịch của NHTW thì các ngân
hàng mới có thể tham gia giao dịch OMO.
Khi thực hiện giao dịch OMO, NHTW thường yêu cầu sử dụng các GTCG
có độ rủi ro rất thấp và tính thanh khoản cao. Chính vì vậy, các GTCG do Bộ Tài
chính hay chính NHTW phát hành thường được NHTW ưu tiên chấp thuận. Các
GTCG này thường được nắm giữ bởi các ngân hàng có tiềm lực tài chính mạnh,
quy mô lớn hoặc nguồn vốn dồi dào. Bên cạnh đó, NHTW cũng chấp thuận các
GTCG khác như: GTCG do Chính phủ các nước phát triển phát hành, GTCG do
chính quyền địa phương phát hành hoặc GTCG do các tổ chức tín dụng, tài chính
có độ tín nhiệm cao phát hành.
Chính vì vậy, danh mục GTCG được chấp thuận sử dụng trong giao dịch
OMO càng đa dạng thì các ngân hàng cũng có thêm sự lựa chọn trong cơ cấu đầu
tư GTCG nhằm đảm bảo tính thanh khoản và khả năng sinh lợi.
1.3. KHẢO CỨU SỰ VẬN HÀNH NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA MỘT SỐ
NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆT NAM

một ngày. Điều này góp phần nâng cao tính linh hoạt của thị trường.
Đối tác của BOJ chủ yếu là các ngân hàng. Ban đầu BOJ thực hiện mua
bán GGCG trực tiếp với các ngân hàng. Hiện nay, BOJ đã thực hiện các giao
dịch OMO chủ yếu thông qua các nhà giao dịch sơ cấp và chỉ giới hạn trong
phạm vi các ngân hàng mà không bao gồm các trung gian tài chính phi ngân
hàng và các doanh nghiệp. Vì vậy, tác động của OMO tại Nhật Bản không
mạnh như tại các NHTW của các nước phát triển khác trên thế giới.
b, Cục dự trữ liên bang Mỹ
23
Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed, NHTW của Mỹ) bắt đầu thực hiện OMO
từ cuối những năm 1920. Khi đó, OMO được sử dụng như một công cụ hỗ trợ
thực hiện cho vay chiết khấu của Fed. Nhưng đến nay, OMO được coi là công
cụ CSTT linh hoạt, có hiệu quả và quan trọng nhất của Fed vì hoạt động
OMO có tính chất quyết định đến sự thay đổi dự trữ của hệ thống ngân hàng
và lãi suất thị trường. Để điều hành OMO, Fed đã thành lập Uỷ ban nghiệp vụ
thị trường mở (FOMC). Theo định kỳ 6 tuần/lần, FOMC họp bàn phân tích
các diễn biến kinh tế - tiền tệ và các yếu tố ảnh hưởng để đưa ra các quyết
định về mục tiêu tăng trưởng M1, M2 và lãi suất liên ngân hàng định hướng,
lãi suất chiết khấu từ đó quyết định khối lượng GTCG giao dịch trên thị
trường mở, phương thức giao dịch và thời hạn giao dịch.
Fed lựa chọn những chứng khoán có tính thanh khoản và độ an toàn cao
làm công cụ thực hiện OMO nhằm đạt được mục tiêu điều tiết vốn khả dụng
của hệ thống ngân hàng một cách có hiệu quả nhất. Chứng khoán Chính phủ
Mỹ (đặc biệt là tín phiếu kho bạc) là công cụ chủ yếu được sử dụng trong các
giao dịch OMO do có khối lượng giao dịch trên thị trường lớn, có tính thanh
khoản và độ an toàn cao. Thời hạn của các chứng khoán Chính phủ được giao
dịch trên thị trường khá đa dạng, từ dưới 01 năm đến trên 10 năm.
Đối tác giao dịch chủ yếu của Fed là các ngân hàng. Tuy nhiên hầu hết
các giao dịch OMO thực hiện thông qua các nhà giao dịch chứng khoán chính
phủ chuyên nghiệp (ngân hàng).

BOT cũng thực hiện việc đấu thầu tín phiếu NHTW trên thị trường mở.
Do thị trường tiền tệ có quy mô nhỏ và tính cạnh tranh giữa các thành
viên so với các nước phát triển, phạm vi hoạt động OMO của BOT tương đối
rộng. Mặc dù vậy, sự hạn chế về hàng hoá cũng như sự phát triển thị trường
chưa hoàn hảo làm cho tác động có thể thiệp của BOT thông qua OMO còn
hạn chế. Hiện nay, hoạt động OMO của BOT vẫn còn hai hạn chế chủ yếu:
Thứ nhất là, BOT chưa thực hiện OMO năng động vơi mục đích thay đổi
mức dự trữ của các ngân hàng theo các mục tiêu của CSTT, mà chủ yếu thực
hiện OMO nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường.
Thứ hai là, quy mô và mức độ biến động của các luồng vốn quốc tế ngày
càng tăng khiến cho BOT tăng cường quy mô hoạt động OMO nhằm bù đắp
lại những biến động của các nhân tố khác gây ra đối dự trữ của các ngân hàng
(mà cụ thể là nhằm bù đắp lại việc bơm/hút đồng Baht của Quỹ ổn định tỷ
giá).
Khác với các nước khác, thị trường tài chính Thái Lan bị ảnh hưởng
mạnh bởi nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Để đảm bảo CSTT độc lập, BOT
25

Trích đoạn Quy chế quản lý vốn khả dụng Một số phũng ban khỏc đó gúp phần cho hoạt động OMO được thực hiện Đấu thầu lói suất Đỏnh giỏ hoạt động nghiệp vụ thị trường mở 1 Những kết quả đạt được Những hạn chế và nguyờn nhõn a Những hạn chế
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status