Gia nhập WTO những thuận lợi và khó khăn - Pdf 24

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Toàn cầu hóa đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng. Đó là quy
luật tất yếu và khách quan. Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên
thế giới đều thiết lập mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhau
trên mọi lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế…Để cùng
chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp, giải quyết những vấn đề
chung của trái đất mà từng quốc gia riêng lẻ thì không thực hiện
được. Đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế thì sự hợp tác này ngày càng
cần thiết hơn bao giờ hết. Nó giúp cho các nước có thể lưu thông
hàng hóa một cách thuận lợi, có thể trao đổi kinh nghiệm, khoa
học kĩ thuật, công nghệ sản xuất hiện đại để nâng cao năng suất
lao động và tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn, giúp
cho việc lưu thông nguồn vốn một cách dễ dàng. Chính vì vậy, mà
hàng loạt các tổ chức thương mại thế giới lần lượt ra đời như
:WTO, NAFTA, ASEAN, EU…
Trong đó WTO là tổ chức thương mại trên thế giới thu hút nhiều
quốc gia gia nhập vào tổ chức này. WTO ra đời nhằm thúc đẩy tự
do thương mại trên toàn cầu. Các nước tham gia WTO sẽ nhận
được nhiều thuận lợi và cơ hội. Đồng thời cũng phải đối mặt với
nhiều khó khăn và thách thức. Lợi ích của việc gia nhập WTO là
các nước thành viên được mở rộng cơ hội thương mại, được
hưởng các quyền lợi có trong các hiệp định WTO…Với Việt
Nam, thì việc mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trong khu
vực nói riêng và trên thế giới nói chung là việc làm vô cùng cấp
bách để phát triển vững chắc nền kinh tế nước nhà. Đặc biệt, việc
tham gia WTO sẽ tạo cho Việt Nam nhiều cơ hội và trải nghiệm
mới, tiếp xúc với môi trường làm việc mới để mở rộng thị trường,
từng bước gây dựng nền kinh tế ổn định và phát triển. Đó cũng
chính là lí do mà chúng tôi chọn WTO là đề tài làm tiểu luận.
2.Mục đích chọn đề tài

gồm 33 nước tham gia đã ký hiệp định giảm thuế bình quân
35% cho 5000 mặt hàng.
Vòng đàm phán thứ 3 diễn ra năm 1950 tại Torquay
(Anh), các bên nhất trí trao đổi 8700 nhượng bộ thuế quan dẫn
đến việc cắt bỏ 25% so với mức năm 1948.
Vòng đàm phán thứ 4 diễn ra năm 1956 tại geneve nhất trí
cắt giảm thuế quan trị giá 2,5 tỷ USD.
Vòng đàm phán thứ 5 diễn ra năm 1958 (gọi là vòng
Dellon) gồm có 45 nước tham gia đàm phán kéo dài đến tháng
1/1962, kết quả đạt 4400 nhượng bộ thuế quan trị giá 4,9 tỷ
USD.
Vòng đàm phán thứ 6 diễn ra năm 1964 ( gọi là vòng
kennedy) dẫn đến việc ký vào năm 1967 một hiệp định giữa 50
nước, chiếm 75% mậu dịch thế giới.
Vòng đàm phán thứ 7 diễn ra năm 1973 tại tokyo với 99
nước tham dự thỏa thuận giảm thuế quan trị giá 300 tỷ USD,
đạt mức thuế quan từ 0,7% đến 0,4% đối với các hàng chế tạo
của 9 thị trường công nghiệp lớn nhất thế giới.
Năm 1982, hội nghị bộ trưởng GATT tại Geneve khẳng
định lại các nguyên tắc GATT và đưa ra một chương trình làm
cơ sở để GATT tổ chức vòng thương mại mới.
Năm 1986, Các bộ trưởng GATT bắt đầu GATT-8 tại
Punta del este (Uruquay). Vòng đàm phán gồm 123 nước tham
gia và kéo dài đến năm 1993. Vòng đàm phán này làm trị giá
thương mại tăng lên đến gần 4.000 tỉ USD, thuế quan nhập
khẩu bình quân chỉ còn 3.9%.
Ngày 15/4/1994 tại Marrakesh (Maroc), thành lập tổ chức
thương mại thế giới. Như vậy WTO đi vào hoạt động từ ngày
1/1/1995 là một tổ chức hoạt động độc lập với hệ thống Liên
Hiệp Quốc.

Hội nghị Bộ trưởng có thể ra quyết định đối với bất kỳ vấn đề
trong các thỏa ước thương mại đa phương của WTO.
1.2.1.2 Đại hội đồng WTO
Công việc hàng ngày của WTO được đảm nhiệm bởi 3 cơ
quan: Đại Hội đồng, Hội đồng Giải quyết Tranh chấp và Hội đồng
Rà soát Chính sách Thương mại. Tuy tên gọi khác nhau, nhưng
thực tế thành phần của 3 cơ quan đều giống nhau, đều bao gồm
đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các
nước thành viên. Điểm khác nhau giữa chúng là chúng được nhóm
họp để thực hiện các chức năng khác nhau của WTO.
1.2.1.2.1 Đại Hội đồng
Là cơ quan ra quyết định cao nhất của WTO tại Geneva,
được nhóm họp thường xuyên. Đại Hội đồng bao gồm đại diện
(thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành
viên và có thẩm quyền quyết định nhân danh hội nghị bộ trưởng
(vốn chỉ nhóm họp hai năm một lần) đối với tất cả các công việc
của WTO.
1.2.1.2.2 Hội đồng Giải quyết Tranh chấp
Được nhóm họp để xem xét và phê chuẩn các phán quyết về
giải quyết tranh chấp do Ban Hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm đệ
trình. Hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên
(cấp đại sứ hoặc tương đương).
1.2.1.2.3 Hội đồng Rà soát Chính sách Thương mại
Được nhóm họp để thực hiện việc rà soát chính sách thương
mại của các nước thành viên theo cơ chế rà soát chính sách
thương mại. Đối với những thành viên có tiềm lực kinh tế lớn,
việc rà soát diễn ra khoảng hai đến ba năm một lần. Đối với những
thành viên khác, việc rà soát có thể được tiến hành cách quãng
hơn.
1.2.1.3 Các Hội đồng Thương mại

nhiệm kỳ 4 năm. Ngoài vai trò điều hành, Tổng giám đốc của
WTO còn có một vai trò chính trị rất quan trọng trong hệ thống
thương mại đa phương. Chính vì vậy mà việc lựa chọn các ứng cử
viên vào chức vụ này luôn là một cuộc chạy đua ác liệt giữa các
nhân vật chính trị quan trọng, cấp Bộ trưởng, Phó Thủ tướng hoặc
Tổng thống (Trong số các ứng cử viên vào chức vụ Tổng giám
đốc đầu tiên của WTO có ông Salinas, cựu Tổng thống Mêhicô).
Quyền hạn và trách nhiệm của Tổng giám đốc do Hội nghị Bộ
trưởng quyết định. Biên chế Ban thư ký WTO do Tổng giám đốc
quyết định. Tổng giám đốc và thành viên Ban thư ký WTO có quy
chế tương tự như của viên chức các tổ chức quốc tế, hoạt động
độc lập và chỉ tuân theo các quyết định và tôn chỉ của WTO. Họ
được hưởng các quyền ưu đãi, miễn trừ tương tự như viên chức
của các tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc. Cũng như những
người tiền nhiệm trước kia trong GATT, Tổng giám đốc WTO có
vai trò hết sức quan trọng, dẫn dắt các vòng đàm phán thương mại
đa biên và giải quyết tranh chấp ( Ông Rugiero, Tổng giám đốc
sắp mãn nhiệm của WTO đã đóng vai trò trung gian hoà giải rất
tích cực và có hiệu quả trong vụ tranh chấp giữa Mỹ và EU liên
quan đến việc áp dụng các đạo luật Helms-Burton và D’Amaton-
Kennedy năm 1997). Vị trí đặc biệt của Tổng giám đốc WTO thể
hiện một trong những nét đặc trưng trong ngoại giao đa phương
ngày nay khi trên thực tế các quan chức lãnh đạo cao cấp của các
tổ chức quốc tế ngày càng đóng vai trò "điều hành" (managing)
nhiều hơn là "chấp hành" (executive).
1.3. Nguyên tắc hoạt động của WTO
1.3.1. Nguyên tắc không phân biệt đối xử
Được thể qua 2 quy chế:
1.3.1.1. Quy chế đãi ngộ tối huệ quốc: Most Favoured
Nation(MFN)

của nước ngoài tràn vào khi mở cửa thị trường không chỉ có thuận
lợi mà cũng đưa ra những khó khăn, đòi hỏi phải điều chỉnh từng
bước nền sản xuất trong nước. Vì vậy, các hiệp định của WTO đã
được thông qua với quy định cho phép các nước từng bước thay
đổi chính sách thông qua lộ trình tự do hóa từng bước.
1.3.3. Nguyên tắc xây dựng môi trường kinh doanh dễ dự
đoán
Đây là nguyên tắc quan trọng của WTO. Các nước thành
viên có nghĩa vụ đảm bảo tính ổn định và có thể dự đoán trước
được về các cơ chế chính sách,quy định thương mại của mình
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư kinh doanh nước
ngoài có thể hiểu, nắm bắt được lộ trình thay đổi chính sách nội
dung các cam kết về thuế, phi thuế của nước chủ nhà dể từ đó
doanh nghiệp có thể dễ dàng hoạch định kế hoạch kinh doanh, đầu
tư của mình. Nội dung của nguyên tắc này bao gồm:
Về các thỏa thuận cắt giảm thuế quan: Bản chất của thương
mại trong WTO là các thành viên ưu đãi, nhân nhượng thuế quan
cho nhau. Song để các mức thuế quan đã đàm phán phải được cam
kết và không thay đổi theo hướng không tăng thuế suất, sau khi
đàm phán, mức thuế suất đã thỏa thuận sẽ được ghi vào một bản
danh mục thuế. Được gọi là các mức thuế suất ràng buộc. Một
nước chỉ có thể mức thuế đã cam kết ràng buộc chỉ khi đã đàm
phán với đối tác của mình và phải đền bù thiệt hại do sự
tăngbópthuế đó gây ra.
Về các biện pháp phi thuế quan: Biện pháp phi thuế quan là
biện sử dụng hạn ngạch hoặc hạn chế dịnh lượng khác như quản lí
hạn ngạch. Các biện pháp này dễ làm nảy sinh tệ nhũng nhiễu, lạm
dụng quyền hạn, bóp méo thương mại, làm thương mại thiếu lành
mạnh, minh bạch. Do đó, WTO chủ trương các biện pháp này phải
được loại bỏ hoặc chấm dứt. Bên cạnh đó, WTO có cơ chế giám

NAFTA, AFTA… có quyền áp dụng với nhau một biểu thuế, một
hàng rào phi quan thuế riêng. Và các nước đang phát triển được ưu
đãi riêng, được các nước phát triển dành cho Hệ thống ưu đãi phổ
cập (GSP) với thuế suất thấp hơn thuế suất tối huệ quốc.
Nguyên tắc có đi có lại: Một nước quyết định mở cửa thị
trường của mình (hạ thuế nhập khẩu, bỏ bớt các quy định đối với
hàng nhập) có quyền đòi hỏi các thành viên khác có những nhượng
bộ tương tự.
Nguyên tắc công khai và cạnh tranh lành mạnh: Yêu cầu các
nước thành viên không được tăng và từng bước giảm hàng rào phi
thuế quan, thừa nhận quyền đánh thuế chống phá giá và chống trợ
cấp xuất khẩu.
Nguyên tắc khước từ một số nghĩa vụ của GATT: Cho phép mỗi
thành viên có quyền áp dụng biện pháp cấp thiết (như hạn chế
nhập khẩu hoặc đình chỉ những nhượng bộ về quan thuế) để bảo vệ
ngành công nghiệp trong nước đang bị thương tổn, hoặc do khó
khăn về cán cân thanh toán.

Nguyên tắc ưu tiên cho hàng hoá của các nước đang phát
triển: Ngoài hệ thống GSP, còn có các ưu đãi về tiếp cận thị
trường, hoặc ít bị ràng buộc bởi nguyên tắc có đi có lại.
2.2. Hiệp định chungvề thương mại dịch vụ (General
Agreement on Trade in Services _GATS)
2.2.1. Giới thiệu
Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GATS) là tập
hợp đầu tiên và duy nhất những quy định đa biên điều chỉnh
thương mại dịch vụ thế giới. Hiệp định được kí kết sau khi kết
thúc vòng đàm phán Uruguay và bắt đầu có hiệu lực từ ngày
1.1.1995. GATS bao gồm 3 phần: văn bản chính của hiệp định nêu
ra những nghĩa vụ và quy định chung, phần phụ lục bao gồm các

các lĩnh vực cụ thể thông qua các cuộc đàm phán. Các cam kết này
được liệt kê lại trong các “danh mục” các ngành sẽ được mở cửa,
mức độ mở cửa đối với mỗi ngành (những hạn chế đối với sự tham
gia của đối tác nước ngoài được nêu rõ nếu cần) và các hạn chế có
thể có đối với nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (tức khi một số ưu đãi
được dành cho các công ty trong nước nhưng không dành cho các
công ty nước ngoài). GATS cũng không cấm độc quyền của nhà
nước và độc quyền của tư nhân. Theo cách tiếp cận của GATS đối
với các cam kết, các nước thành viên không bị buộc phải đưa ra
cam kết về tất cả các ngành dịch vụ. Một chính phủ có thể không
muốn cam kết về mức độ cạnh tranh nước ngoài trong một ngành
nhất định, bởi họ cho rằng đó là một chức năng cơ bản của chính
phủ hoặc vì bất cứ lý do gì khác. Trong trường hợp này, các chính
phủ chỉ tuân thủ những nghĩa vụ tối thiểu như đảm bảo sự minh
bạch trong cách thức điều tiết ngành dịch vụ này và không được
phân biệt đối xử giữa các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài với
nhau.
Tính minh bạch: Theo GATS, các chính phủ phải công bố
tất cả các luật, quy định xác đáng và thiết lập các điểm thông tin
trong các cơ quan hành chính của mình. Từ các điểm thông tin này,
các công ty và chính phủ nước ngoài có thể lấy thông tin liên quan
đến các qui định điều chỉnh ngành dịch vụ này hay ngành dịch vụ
khác. Các nước thành viên cũng phải thông báo cho WTO tất cả
những thay đổi về qui định điều chỉnh các ngành dịch vụ là đối
tượng của các cam kết cụ thể.
Khách quan và hợp lý: Hiệp định quy định chính phủ các
nước phải điều tiết các ngành dịch vụ một cách hợp lý, khách quan
và công bằng. Khi đưa ra một quyết định hành chính tác động đến
dịch vụ thì chính phủ cũng phải lập cơ chế công minh cho phép
xem xét lại quyết định này. GATS không buộc các nước phải dỡ

bảo hộ cơ bản, đó là đối tượng được bảo hộ, các quyền được cấp
và các ngoại lệ được phép đối với các quyền đó và thời hạn bảo hộ
tối thiểu. Các nguyên tắc cơ bản về đối xử quốc gia (cấm Thành
viên phân biệt đối xử giữa công dân của mình với công dân của các
Thành viên khác) và về đối xử tối huệ quốc (cấm Thành viên phân
biệt đối xử giữa công dân của các Thành viên khác), được áp dụng
chung cho tất cả các đối tượng sở hữu trí tuệ thuộc phạm vi điều
chỉnh của Hiệp định. Các nghĩa vụ này không chỉ áp dụng đối với
các tiêu chuẩn về nội dung của việc bảo hộ mà còn áp dụng cả đối
với những vấn đề liên quan đến khả năng đạt được, xác lập, phạm
vi, việc duy trì và thực thi quyền sở hữu trí tuệ cũng như những
vấn đề ảnh hưởng đến việc sử dụng quyền sở hữu trí tuệ được điều
chỉnh cụ thể trong Hiệp định.
Nguyên tắc MFN: một nước thành viên của WTO giành
những ưu đãi, ưu tiên hoặc miễn trừ áp dụng quyền sở hữu trí tuệ
có liên quan đến thương mại cho công dân của một quốc gia thì
cũng phải giành những điều kiện tương tự cho công dân của tất cả
các nước thành viên khác thuộc WTO.
Nguyên tắc NT: Mỗi nước thành viên cho các công dân của
nước khác những đối xử không kém thuận lợi hơn về bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại so với công dân nước
mình.
Các trường hợp ngoại lệ không phải áp dụng các nguyên tắc
trên là đươc quy định cụ thể trong: Công ước Pari về bảo hộ sở
hữu công nghiệp, Công ước Berne vê bảo hộ các tác phẩm văn học
và nghệ thuật, công ước Roma về bảo hộ người biểu diễn, người
sản xuất bản ghi âm va các tổ chức phát thanh truyền hình, hiệp
ước Washington về sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực mạch tích hợp.
Thời hạn cần thiết để chuyển đổi luật quốc gia phù hợp với
TRIPs là:

Các quy định về trình tự, thủ tục thực hiện các biện pháp chế tài
dân sự, hành chính, hình sự còn chưa đầy đủ và chưa thực sự rõ
ràng, minh bạch. Quy định về thẩm quyền và trách nhiệm cũng
như cơ chế hoạt động của hệ thống các cơ quan thực thi hành chính
chưa hợp lý. Do đó quan hệ về sở hữu trí tuệ mang bản chất dân sự
chưa được chú trọng xử lý bằng trình tự dân sự mà, ngược lại, bị
hành chính hoá và hình sự hoá một cách bất hợp lý. Một số quy
định trong hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam còn
chưa đáp ứng được những đòi hỏi thực tiễn, đặc biệt là chưa thật
sự rõ ràng, chi tiết nên khó áp dụng trong thực tiễn.
2.4. Hiệp định các biện pháp thương mại có liên quan đến
đầu tư (Agreement on trades Related Invesment Measures-
TRIMs)
2.4.1. Giới thiệu
TRIMS có hiệu lực từ ngày 1.1.1995.Đây là một hiệp định
mà các nước thành phải kí kết thực hiện với mục đích tạo thuận lợi
cho hoạt động đầu tư quốc tế và chỉ áp dụng các biện pháp có liên
quan đến thương mại hàng hóa. Mục tiêu chính của hiệp định là
nhằm thúc đẩy việc mở rộng, phát triển tự do hoá đầu tư và thương
mại quốc tế để tăng trưởng và phát triển kinh tế của tất cả các nước
tham gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, trên cơ sở đảm bảo
tự do cạnh tranh. Ngoài ra, hiệp định cũng có tính đến các nhu cầu
cụ thể về thương mại, phát triển và khả năng tài chính của các
nước thành viên đang phát triển, nhất là các nước thành viên kém
phát triển.
2.4.2. Nội dung cơ bản của TRIMS
TRIMS cấm áp dụng một số biện pháp bị coi là vi phạm
nguyên tắc “đãi ngộ quốc gia” và các biện pháp có tác dụng hạn
chế thương mại bao gồm các biện pháp:
Yêu cầu tỷ lệ nội địa hoá (vi phạm điều III.4, GATT 1994):


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status