Đánh giá nợ nước ngoài của Việt Nam - Pdf 24

MÔN HỌC: HỆ THỐNG TÀI KHOẢN QUỐC GIA SNA
Đề tài: Dựa trên quan điểm của hệ thống tài khoản quốc gia, hãy đánh giá về nợ nước ngoài
của Việt Nam trong thời gian vừa qua.
---------------------******************--------------------
“Tính đến ngày 31/12/2009, tổng dư nợ nước ngoài quốc gia (bao gồm nợ nước ngoài
Chính phủ và nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh) là 27,929 tỷ USD, áp dụng tỷ giá quy
đổi tại thời điểm cuối kỳ.” theo SAGA.com. Hay “Theo số liệu của The Economist, vào năm
2001, nợ công của Việt Nam mới là chưa đầy 9 tỷ USD, bình quân mỗi người gánh số nợ
công xấp xỉ 112 USD, và nợ công mới tương đương 28% GDP.” trích dẫn trên
vneconomy.com. Trong năm 2010 trước tình trạng Hy Lạp tuyên bố phá sản và một số nước
khác cũng lâm vào tình trạng khủng hoảng nợ công thì tại Việt Nam các phương tiện truyền
thông cũng đầy ắp các thông tin về thực trạng nợ nước ngoài. Vậy theo quan điểm của Hệ
thống tài khoản quốc gia thì tình trạng nợ nước ngoài Việt Nam sẽ được lý giải như thế nào?
Hệ thống tài khoản quốc gia được nghiên cứu xuất phát từ những vấn đề đặt ra cho
việc phân tích hoạt động kinh tế vĩ mô của đất nước, đặc biệt là những mối quan hệ giữa các
yếu tố, các bộ phân hợp thành của nền kinh tế. Đây là những mối quan hệ có ý nghĩa trong
việc đảm bảo sự phát triển kinh tế. Như vậy, hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) là một hệ
thống thông tin kinh tế cho cái nhìn tổng quát nhất về nền kinh tế. Nó bao gồm hệ thống các
tài khoản, mỗi tài khoản phản ánh một khía cạnh khác nhau về nền kinh tế. Các tài khoản
này được thiết kế nhằm đảm bảo tính nhất quán, liên kết và tích hợp dựa trên một tập hợp
các khái niệm, các định nghĩa hay quy tắc hoạch toán thống nhất trên toàn thế giới.
Việc xây dựng SNA được dựa trên lý luận của các nhà kinh tế thị trường cho rằng hoạt
động sản xuất là tất cả các hoạt động tạo ra thu nhập, bao gồm sản xuất tạo ra của cải
vật chất và các ngành tạo ra giá trị. Theo quan điểm chủa SNA thì hoạt động sản xuất được
chia theo 3 khu vực là:
- Khu vực I: các ngành nông – lâm – ngư nghiệp
1
- Khu vực II: các ngành công nghiệp và xây dựng
- Khu vực III: các ngành dịch vụ
Các chỉ tiêu đo tăng trưởng kinh tế được sử dụng trong SNA bao gồm: tổng giá trị sản xuất
(GO), tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và tổng thu nhập quốc dân (GNI). Trong đó, tổng giá

nước ngoài. Nợ nước ngoài dài hạn: là khoản nợ nước ngoài có thời hạn trên một năm. Nợ
quá hạn: là khoản nợ đã đến thời hạn trả nhưng người đi vay chưa thực hiện trả nợ với
người cho vay. Nợ quá hạn xảy ra ở cả hai trường hợp là chậm thanh toán gốc và chậm thanh
toán lãi của các công cụ nợ cũng như là việc chậm thanh toán trong các giao dịch khác. Giải
ngân/Rút vốn: là các hoạt động cấp vốn. Cả hai bên tham gia đều phải ghi lại giao dịch ngay
sau đó. Trong thực tế, giải ngân được ghi lại tại một trong các thời điểm sau: thời điểm cung
cấp hàng hóa dịch vụ (thời điểm liên quan đến tín dụng thương mại); thời điểm chuyển vốn
vào tài khoản; thời điểm người vay rút vốn từ một quỹ hoặc tài khoản hoặc từ người cho
vay. Thuật ngữ “được sử dụng” có thể áp dụng trong trường hợp tín dụng được thực hiện
dưới dạng không phải bằng tiền. Việc giải ngân có thể được ghi lại dưới dạng tổng khối
lượng giải ngân thực tế. Hoàn trả nợ gốc: là việc thanh toán thực tế được thực hiện bởi con
nợ cho các chủ nợ khoản nợ gốc trên cơ sở của lịch trả nợ. Hoãn nợ: đề cập đến việc hoàn
thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ và áp dụng kì hạn mới, dài hơn đối với khoản tiền được
hoãn nợ. Hoãn nợ là cách giúp cho người mắc nợ giảm nhẹ gánh nặng nợ thông qua việc trì
hoãn hoàn trả và trong trường hợp hoãn nợ có ưu đãi sẽ dẫn đến giảm nghĩa vụ nợ. Tái cơ
cấu nợ: là hoạt động được thực hiện bởi cả người cho vay và người đi vay, kết quả là dẫn
đến sự thay đổi về nghĩa vụ nợ theo hướng làm giảm gánh nặng cho người đi vay. Hoạt động
này có thể là tổ chức lại nợ cho vay hoặc giảm nợ. Đối với trường hợp xóa nợ thì hoạt động
này chỉ được thực hiện bởi người cho vay. Tổ chức lại nợ bao gồm giản nợ, cơ cấu lại nợ và
hoạt động tái tài trợ. Tái tài trợ: là một loại thỏa thuận vay hoặc một loại tài trợ. Tái tài trợ
đề cập đến một thỏa thuận trong đó người cho vay hoặc là một tổ chức đại diện cho người
cho vay tài trợ cho việc thanh toán các phát sinh của khoản vay trước đây thông qua một
khoản vay mới. Các khoản vay mới khác với các khoản tái tài trợ vì các khoản tái tài trợ vần
giữ nguyên các điều khoản ban đầu. Các điều khoản của khoản tái tài trợ không nhất thiết là
giống với các khoản tái cấp vốn trước đây và các khoản tín dụng. Việc tổ chức lại một khoản
3
nợ, liên quan đến cả người cho vay và người đi vay, phải sử dụng đến nghiệp vụ tái tài trợ.
Hiện nay nghiệp vụ tái tài trợ được sử dụng thường xuyên trong trường hợp người đi vay
chấp nhận một khoản vay mới để trả nợ cho khoản vay cũ. Xóa nợ: là một quyền về tài chính
mà người cho vay xem là không thể đòi về được và không còn được theo dõi trong sổ sách.

VN luôn trả được nợ và trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi, chưa bao giờ để nợ nước ngoài quá hạn,
vượt khả năng thanh toán.Theo báo cáo của Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại, riêng quý
1-2010 VN phải trả trên 329 triệu USD cả gốc và lãi, phí. Các doanh nghiệp, tổ chức được
Chính phủ bảo lãnh cũng phải dành số tiền trả gốc và lãi, phí trong quý 1-2010 là trên 127
triệu USD. Với số nợ hiện tại, trong những năm tới không vay thêm thì số tiền VN phải bỏ ra
mỗi năm để trả nợ sẽ cao nhất vào năm 2016 với trên 1,7 tỉ USD trả nợ gốc và trên 250 triệu
USD trả lãi. Trước mắt, năm 2011 VN sẽ phải trả nợ khoảng 1,1 tỉ USD tính cả gốc lẫn lãi.
Đến năm 2025, VN cũng còn phải trả 764 triệu USD/năm tiền gốc và 91 triệu USD lãi...”
(nguồn tuoitre.vn).
Nếu như theo quan điểm của hệ thống tài khoản quốc gia thì nền kinh tế được chia thành 5
thành phần kinh tế là là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài, kinh tế cá thể tiểu chủ hay chia theo khu vực thì có khu vực nhà nước, khu
vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thì nợ nước ngoài phần lớn xuất
phát từ khu vực nhà nước (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể) nhưng gánh nặng trả nợ thì lại
đè nặng lên vai toàn bộ nền kinh tế. Thực tế cho thấy các dự án có vốn vay nước ngoài chủ
yếu thuộc ngành năng lượng, giao thông vận tải, thủy sản, trồng rừng… mà đầu ra của các
ngành này luôn luôn biến động, phần lớn chưa đáp ứng được nhu cầu để trả nợ. Cùng với
việc lạm phát tăng cao, bổ sung cho đầu tư phát triển, bù đắp thâm hụt ngân sách thì hàng
năm chúng ta lại tiếp tục vay thêm nợ mới để chi trả cho các hoạt động và chi trả cho các
khoản nợ cũ..
Trên quan điểm của hệ thống tài khaorn quốc gia SNA, dựa vào banrgtaif khaorn thu nhập và
chi tiêu chúng ta có thể thấy được một cash rõ ràng hơn về thực trạng nợ nước ngoài của
Việt Nam trong thời gian gần đây.
Tài khoản phân phối lần đầu thu nhập
5


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status