Bài tuyên truyền tìm hiểu hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam - Pdf 25

ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN HIẾN PHÁP NƯỚC
CHXHCN VIỆT NAM NĂM 2013
Vấn đề 1.
Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay
là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đến nay, nước ta có 05 bản
Hiến pháp.
- Hiến pháp 1946 là bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa được Quốc hội thông qua vào ngày 9 tháng 11 năm 1946
- Hiến pháp năm 1959 được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa thông qua vào ngày 31/12/1959.
- Hiến pháp năm 1980 được Quốc hội khoá VI, tại kỳ họp thứ 7
ngày 18-12-1980, đã nhất trí thông qua Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1980.
- Hiến pháp năm 1992 được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa việt nam thông qua ngày 15/4/1992, được Quốc hội nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi, bỏ sung một số điều của Hiến pháp
năm 1992 vào ngày 25/12/2001.
- Hiến pháp pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2013 là bản Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được Quốc hội Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua vào ngày
vào sáng ngày 28 tháng 11 năm 2013.
Vấn đề 2.
- Bản Hiến pháp mới được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 28/11/2013 (Hiến pháp năm 2013) có hiệu
lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014.
- So với Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) có
07 điều được giữ nguyên, sửa đổi 101 điều, bổ sung 12 điều.
- Điều sửa đổi, bổ sung bạn tâm đắc nhất. Phải nêu được lí do mà bản
thân tâm đắc. (Trích dẫn rõ Điều và nội dung điều sửa đổi mà bản thân tâm
đắc nhất sau đó phân tích dựa trên quan điểm cá nhân của mỗi người.
Thông thường để phân tích một điều luật nên phân tích điểm tiến bộ của

quyn con ngi, quyn cụng dõn v chớnh tr, dõn s, kinh t, vn húa, xó
hi c cụng nhn, tụn trng, bo v, bo m theo Hin phỏp v phỏp
lut.Quyn con ngi, quyn cụng dõn ch cú th b hn ch theo quy
nh ca lut, trong trng hp cn thit vỡ lý do quc phũng, an ninh quc
gia, trt t an ton xó hi, o c xó hi, sc khe cng ng.
- iu 53 Hin phỏp nm 2013 th hin: "t ai, ti nguyờn nc,
ti nguyờn khoỏng sn, ngun li vựng bin, vựng tri, ti nguyờn thiờn
nhiờn khỏc v cỏc ti sn do Nh nc u t, qun lý l ti sn cụng thuc
s hu ton dõn do Nh nc i din ch s hu v thng nht qun lý".
Hin phỏp ó khng nh quyn s hu nhng ti sn quan trng ca quc
gia thuc v Nhõn dõn v Nhõn dõn y quyn cho Nh nc i din Nhõn
dõn s hu v thng nht qun lý. Nh nc chu trỏch nhim trc
Nhõn dõn v vic qun lý ti sn do Nhõn dõn y quyn.
2
- Điều 65 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Lực lượng vũ trang nhân
dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước,
có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân,
Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất
nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế" thể hiện trách nhiệm của lực lượng vũ
trang là tuyệt đối trung thành với Nhân dân và trước hết là phải bảo vệ
Nhân dân là một chủ thể làm chủ đất nước, sau đó là bảo vệ Đảng, Nhà
nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Quốc hội là cơ quan đại
biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" đã nhấn mạnh vai trò của
Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, tất cả quyền lực Nhà
nước đều thuộc về Nhân dân. Nhân dân ủy thác thực hiện quyền lực cao
nhất cho Quốc hội để thực hiện quyền lập hiến như đề xuất sửa đổi Hiến
pháp,

dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có
tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân”
Điều 75 Chương V: Quốc hội quy định: “1. Hội đồng dân tộc gồm
Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Chủ tịch Hội đồng dân tộc do
Quốc hội bầu; các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Hội đồng dân tộc do Ủy
ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
2. Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công
tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc,
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng
bào dân tộc thiểu số.
3. Chủ tịch Hội đồng dân tộc được mời tham dự phiên họp của Chính
phủ bàn về việc thực hiện chính sách dân tộc. Khi ban hành quy định thực
hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý kiến của Hội đồng dân tộc.
4. Hội đồng dân tộc có những nhiệm vụ, quyền hạn khác như Ủy ban
của Quốc hội quy định tại khoản 2 Điều 76.”
Vấn đề 5.
Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) về quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân thể hiện:
Điều 14.
“1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy
định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”
Điều 16.
“ 1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa, xã hội.”

và bảo vệ Tổ quốc.
3. Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm
sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
Điều 41. “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn
hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa. ”
Điều 42. “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng
ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”
Điều 43. “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong
lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường.”
Khoản 6 Điều 96. “Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội,
quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.”
5
Khoản 3 Điều 102. “ Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân.”
Khoản 3 Điều 107. “Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ
pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất.”
- Trong số những diểm mới nêu trên, lựa chọn một điểm mới mà bản
thân tâm đắc nhất và phân tích làm rõ: Vì sao bản thân tâm đắc? Điều luật
đó thể hiện sự tiến bộ như thế nào?
Vấn đề 6. Những điểm mới, quan trọng về vị trí, chức năng của
Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân trong Hiến pháp năm 2013.
Phân tích điểm mới về mối quan hệ giữa các cơ quan đó trong thực
hiện quyền lực Nhà nước.
Những điểm mới, quan trọng về vị trí, chức năng của Quốc hội,
Chính phủ, Tòa án nhân dân trong Hiến pháp năm 2013

chức quốc tế và khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với
luật, nghị quyết của Quốc hội.” (Khoản 14 Điều 70)
- Chính phủ (Chương VII)
Hiến pháp năm 2013 kế thừa đồng thời bổ sung để thể hiện một cách
toàn diện tính chất, vị trí, chức năng của Chính phủ. Điều 109 Hiến pháp
năm 2013: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ
quan chấp hành của Quốc hội”. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến
VN, Hiến pháp chính thức khẳng định Chính phủ là cơ quan thực hiện
quyền hành pháp. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng giúp xác định cụ thể, rõ
ràng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vai trò của Chính phủ trong
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam.
Hiến pháp đã thay đổi cách thức quy định về hình thức ban hành văn
bản quy phạm pháp luật của Chính phủ. Hiến pháp năm 1992 quy định cụ
thể các hình thức ban hành văn bản pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Các quy định này
đã được sửa đổi bởi Luật Ban hành văn bản quy phạm năm 2008. Để phù
hợp với thực tiễn xây dựng pháp luật ở nước ta và hiến pháp nhiều nước
trên thế giới, Điều 100 Hiến pháp năm 2013 sửa lại là:“Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn
bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi
hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của
luật”.
Hiến pháp phân định cụ thể thẩm quyền của Chính phủ trong việc tổ
chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền
của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt
hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình
Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70 của Hiến pháp.

- Cấp chính quyền địa phương quy định trong Hiến pháp năm 2013
gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân: “Cấp chính quyền địa
phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù
hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt do luật định.” (Khoản 2, Điều 111 Hiến pháp 2013)
- Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương
đối với Nhân dân thể hiện:
+ Hội đồng nhân dân (Đ 113)
8
“ 1. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương,
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân
dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ
quan nhà nước cấp trên.
2. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật
định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc
thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.”
+ Ủy ban nhân dân (Đ 114)
1. Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân
dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệmtrước Hội đồng nhân dân và
cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
2. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở
địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực
hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
Vấn đề 8.
Hiến pháp năm 2013 quy định về trách nhiệm của đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân đối với cử tri và Nhân dân như sau:
- Trách nhiệm của đại biểu Quốc hội đối với cử tri và Nhân được
Hiến pháp năm 2013 quy định tại Điều 79:
“1. Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của

Việt Nam, Ban biên tập Trang thông tin điện tử Đại biểu nhân dân tỉnh
Nghệ An đã có cuộc phỏng vấn ông Phạm Văn Tấn – Tỉnh ủy viên, Trưởng
Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Nghệ An về một số vấn đề liên quan.
BBT: Thưa ông! Ông có thể cho biết suy nghĩ của mình đối với việc
tổ chức hội nghị toàn quốc triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam?
Ông Phạm Văn Tấn: Thời gian gần đây, Trung ương tổ chức rất
nhiều hội nghị trực tuyến. Mỗi hội nghị có tính chất, tầm quan trọng khác
nhau, nhưng tôi nhận thấy, hội nghị này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể
hiện tính chất cần thiết, vì được tổ chức cơ bản kịp thời, với các nội dung
cốt yếu có giá trị xuyên suốt đối với việc triển khai thi hành Hiến pháp.
Thành phần tham gia ở tại Hà Nội và các tỉnh, thành phố trong cả nước,
trong đó có tỉnh Nghệ An được mời rộng hơn; đại diện các cấp, các ngành,
đoàn thể tham gia đầy đủ, tiếp thu nghiêm túc, thể hiện thái độ trận trọng
đối với Hiến pháp và trách nhiệm của mỗi ban, ngành, đoàn thể đối với
công việc theo yêu cầu của Trung ương. Nội dung được truyền đạt tại hội
nghị rất đầy đủ, cụ thể, có tính hệ thống, làm rõ những nội dung mới và cơ
bản của Hiến pháp; chú trọng nâng cao nhận thức trách nhiệm, cách làm để
đưa Hiến pháp sớm đi vào cuộc sống, trong đó nhấn mạnh trách nhiệm của
các cấp, các ngành, tổ chức chính trị - xã hội đoàn thể chính trị, nhất là
trách nhiệm trong công tác tuyên truyền, phổ biến, tổ chức học tập, hướng
dẫn các tổ chức, cá nhân, các tầng lớp nhân dân thi hành Hiến pháp, gương
mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật để sớm đưa Hiến pháp đi vào cuộc
sống một cách có hiệu quả nhất.
10
Tất cả nội dung của Hiến pháp đều phải được phổ biến, quán triệt,
học tập. Nhưng những vấn đề cơ bản, những vấn đề mới phải được đặc biệt
chú trọng. Xét trên nhiều phương diện, toàn bộ nội dung Hiến pháp đều là
những vấn đề cơ bản, bởi đây là đạo luật cơ bản, có tính pháp lý cao nhất
của quốc gia. Nhưng trong toàn bộ nội dung của Hiến pháp thì có những

nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng
trời. Nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ.
Bản chất của Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhân dân thực hiện
11
quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp… Chương liên quan đến việc
thu hồi đất, mặc dù việc này đã được quy định cụ thể trong Luật đất đai
(sửa đổi), nhưng ở Hiến pháp lần này có chi tiết rất quan trọng, đó là trong
quá trình phát triển đất nước thì việc thu hồi đất để thực hiện các dự án
phát triển kinh tế - xã hội phải gắn trực tiếp với mục tiêu vì lợi ích quốc
gia, công cộng. Điểm mới này của Hiến pháp sẽ hạn chế tình trạng thu hồi
tràn lan, tùy tiện, không phục vụ cho mục đích chung, thậm chí chỉ phục
vụ mục đích cho một số tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân. Chương chính
địa phương thay Chương Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân của Hiến
pháp trước đó. Chính quyền địa phương được quy định khái quát theo
hướng: Chính quyền địa phương được tổ chức ở những đơn vị hành chính
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền đại
phương gồm có HĐND, UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông
thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Việc tổ chức
HĐND và UBND cụ thể ở từng đơn vị hành chính sẽ được quy định trong
Luật tổ chức chính quyền đại phương dự kiến được Quốc hội thông qua
vào cuối năm 2015.
Hiến pháp là đạo luật cơ bản có giá trị pháp lý cao nhất của nước ta;
là sản phẩm, trí tuệ, tấm lòng, trách nhiệm của toàn dân. Cho nên, tôi nghĩ
rằng, việc làm cho Hiến pháp được thấm, được thấu vào mỗi người dân để
mỗi người dân thi hành Hiến pháp và Hiến pháp được bảo vệ, bảo đảm thi
hành một cách triệt để trong cuộc sống, là yêu cầu có tính bắt buộc. Chính
vì vậy, theo tôi trước hết phải chú trọng việc học tập, phổ biến, tuyên

cuộc sống của người dân; đó cũng chính là cơ sở để đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân và cũng là việc công dân thực hiện các nghĩa vụ
đối với quốc gia, đất nước thông qua việc sống và làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật.
ai trò của Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền
Để tồn tại và phát triển, con người buộc phải liên kết lại với nhau
thành những cộng đồng, thành xã hội. Và cùng với những sự liên kết đó,
trong mỗi cộng đồng đã sinh ra quyền lực công cộng - một phương tiện để
duy trì trật tự trong mỗi cộng đồng, cũng như trong toàn xã hội và để phối
hợp hoạt động của cả cộng đồng, của xã hội theo những định hướng nhất
định vì những mục tiêu chung nhằm đạt tới tự do, hạnh phúc cho mỗi
người và cho cả cộng đồng. Khi trong xã hội xuất hiện nhà nước, cũng có
nghĩa là xuất hiện quyền lực nhà nước - một loại quyền lực công cộng đặc
biệt bắt nguồn từ nhân dân, thuộc về nhân dân nhưng không do toàn thể
nhân dân tự thực hiện mà do một bộ máy chuyên môn thay mặt nhân dân
thực hiện. Song trên thực tế, sự kiểm soát của nhân dân đối với quyền lực
nhà nước từ xưa đến nay luôn là vấn đề rất khó khăn; trong nhiều trường
hợp có thể nói là nhân dân hầu như không thể kiểm soát được quyền lực
nhà nước. Để nhân dân có thể kiểm soát được quyền lực nhà nước, làm cho
nhà nước thực sự là “của dân, do dân và vì dân” thì cần phải xác lập một
cơ chế giao và kiểm soát quyền lực chặt chẽ từ phía nhân dân đối với các
cơ quan nhà nước, những người đại diện cho nhân dân để nhân dân không
bị biến thành công cụ, phương tiện phục vụ lợi ích cho những người mà họ
đã uỷ quyền, thì biện pháp tốt nhất trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là
phải xây dựng nhà nước pháp quyền.
13
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Nhà nước
ta phải được tổ chức và hoạt động theo pháp luật, luôn đề cao vị trí, vai trò
của pháp luật, phấn đấu nhằm đưa lại tự do, hạnh phúc cho con người, tạo
điều kiện cho xã hội tồn tại và phát triển thông qua hệ thống các thể chế và

hội và các cá nhân. Vì vậy, các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân nghiêm chỉnh chấp
hành hiến pháp tức là chấp hành ý chí của nhân dân.
Sự cần thiết phải bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp
14
Nhưng hiến pháp cũng chỉ là một văn bản luật. Với khuôn khổ có
hạn, hiến pháp trong nhiều trường hợp không thể quy định một cách chi
tiết và cụ thể để áp dụng trong mọi tình huống, mà chỉ có thể quy định
những vấn đề chung, cơ bản, mang tính nguyên tắc của nhà nước và của xã
hội như: chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá, xã hội, cơ cấu tổ chức bộ
máy nhà nước, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Do hiến pháp
không thể quy định được tất cả những gì liên quan tới nhà nước và xã hội
nên đòi hỏi phải có sự chi tiết, cụ thể hóa các quy định của hiến pháp bằng
các văn bản pháp luật khác. Nếu không có sự chi tiết, cụ thể đó, những quy
định của hiến pháp sẽ khó đi vào cuộc sống, thậm chí có những quy định
không thể thực hiện được. Vì lẽ đó, thông qua hiến pháp, nhân dân còn uỷ
quyền cho các cơ quan nhà nước trong quá trình hoạt động có thể ban hành
luật và các văn bản dưới luật khác để chi tiết hoá hiến pháp, nhằm để thực
hiện hiến pháp. Việc chi tiết, cụ thể hoá hiến pháp bằng các văn bản pháp
luật khác phải được thực hiện trên cơ sở hiến pháp và phải bảo đảm điều
kiện là tất cả các văn bản pháp luật đó luôn phù hợp với hiến pháp, không
được trái với hiến pháp. Những cơ quan nhà nước nếu không được tổ chức
và hoạt động trên cơ sở các quy định của hiến pháp thì có nghĩa là họ đã
vượt quá những nhiệm vụ, quyền hạn mà nhân dân giao cho, nếu họ ban
hành các văn bản pháp luật không phù hợp với hiến pháp, trái hiến pháp
tức là trái với ý chí của nhân dân, không tuân theo ý chí của nhân dân.
Chưa kể là, nếu không bảo đảm tính tối cao của hiến pháp thì sẽ dẫn đến
tình trạng tản mạn, trùng lặp, chồng chéo hoặc mâu thuẫn trong các văn
bản pháp luật, phá vỡ tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Như vậy, bảo
đảm tính tối cao của hiến pháp không những là sự tôn trọng ý chí và

4. Trong những trường hợp có sự mâu thuẫn giữa quy định của các
văn bản pháp luật khác với các quy định của hiến pháp thì thực hiện theo
quy định của hiến pháp, nếu văn kiện của các tổ chức, đoàn thể xã hội có
nội dung trái với hiến pháp và các văn bản luật khác của nhà nước thì phải
áp dụng quy định của hiến pháp, của các văn bản luật.
Để bảo đảm được tính tối cao của hiến pháp đối với nước ta trong
giai đoạn hiện nay, theo chúng tôi, cần chú ý những yêu cầu cơ bản sau:
Một là, do vị trí và tính chất đặc biệt của hiến pháp trong hệ thống
các văn bản pháp luật của đất nước, theo chúng tôi, cần có thủ tục nhân dân
bỏ phiếu trưng cầu về hiến pháp. Nghĩa là, sau khi được Quốc hội chính
thức thông qua, thì bản hiến pháp cần được đưa ra trưng cầu dân ý để cử tri
cả nước biểu thị ý chí của mình đối với bản hiến pháp hoặc chí ít là đối với
những vấn đề quan trọng, còn nhiều tranh luận được quy định trong hiến
pháp. Điều này cũng thể hiện quyền lực tối cao của nhân dân. Là chủ thể
16
quyền lực nhà nước, nhân dân phải được trực tiếp thông qua hiến pháp, tự
quyết định vận mệnh của mình. Nếu “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân”, thì việc nhân dân giao quyền cho ai, đến đâu, phải do nhân
dân quyết định thông qua hiến pháp. Nói một cách cụ thể hơn, nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan nhà nước, của những người đại diện nhân dân
do hiến pháp quy định phải được sự đồng ý của nhân dân. Các cơ quan nhà
nước, những người đại diện nhân dân chỉ được làm những gì mà nhân dân
thông qua hiến pháp và pháp luật cho phép, do vậy, họ phải quản lý xã hội
bằng pháp luật chứ không phải bằng ý chí chủ quan của mình.
Hai là, về mặt kỹ thuật, hiến pháp cần được xây dựng như một văn
bản mẫu, tránh việc dùng các thuật ngữ không thống nhất trong hiến pháp.
Chẳng hạn, hiến pháp khi quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc
hội là thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo hiến pháp (Điều 84),
nhưng đối với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thì lại là giám sát việc thi hành
hiến pháp (Điều 91), lẽ ra trong cả hai trường hợp đều dùng chữ thực hiện

hiện hiến pháp (kể cả đối với Quốc hội) để bảo vệ tính tối cao của hiến
pháp. Về cơ quan này, cần phải tiếp tục nghiên cứu trên nhiều bình diện,
nhưng sơ bộ về mặt cơ cấu (thành phần), để phù hợp với thể chế chính trị
nước ta hiện nay, chúng tôi cho rằng, cơ quan này có thể gồm Tổng Bí thư
Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và cựu Chủ tịch nước, cựu Chánh án Toà án nhân dân tối cao,
cựu Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cùng một vài chuyên gia
nữa. Sự phán quyết của cơ quan này về tính hợp hiến của một văn bản hay
một hoạt động cụ thể nào đó là không thể thay đổi và văn bản hay hoạt
động cụ thể vi hiến đó cần phải được đình chỉ, huỷ bỏ hoặc chấm dứt.
Chúng ta cần tránh tình trạng tính tối cao của hiến pháp bị vi phạm nhưng
Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội không có biện pháp xử lý. Chẳng
hạn, Hiến pháp năm 1980 quy định việc khám, chữa bệnh không mất tiền,
nhưng Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân năm 1989 lại quy định người bệnh
phải nộp viện phí. Hay Hiến pháp năm 1992 quy định rừng núi thuộc sở
hữu toàn dân, nhưng Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 1991 lại quy định
lâm sản của rừng trồng thì thuộc về người trồng Trong những trường hợp
trên, theo chúng tôi, khi ban hành luật, nếu chúng ta đồng thời sửa các quy
định của hiến pháp cho phù hợp với tình hình mới thì tốt biết bao.
Bảo đảm tính tối cao của hiến pháp trong quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam là yêu cầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Một
mặt, nhằm bảo đảm quyền lực tối cao của nhân dân, tôn trọng ý chí và
nguyện vọng của nhân dân; mặt khác, nhằm bảo đảm tính thống nhất của
hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho sự phát triển và
hoàn thiện hệ thống pháp luật, làm cơ sở để thiết lập trật tự pháp luật, xây
dựng nhà nước pháp quyền, củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Tham gia tích cực, đầy đủ các buổi tuyên truyền, học tập, phổ biến
nội dung Hiến pháp ở địa phương.
18

niệm, xây dựng được Hiến pháp đã khó, nhưng thực hiện Hiến pháp lại
càng khó khăn hơn. Bởi vì, nước ta vẫn còn một tồn tại, đó là: đưa ra nhiều
19
văn bản luật pháp và chính sách, nhưng luật pháp và chính sách được ban
hành không đi vào cuộc sống”- Tiến sĩ Trần Văn Miều nói.
Phải đánh giá được nhận thức, hành vi của dân đối với Hiến pháp
Theo TS Miều, câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào để mọi người dân tiếp
cận và hiểu Hiến pháp? Trước hết, phải có tư duy mới, cách tiếp cận mới
và cách làm mới để triển khai thực hiện Hiến pháp. Công tác tuyên truyền
phổ biến và tổ chức thực hiện luật pháp của nước ta được làm từ lâu. Do
đó, cần có tư duy mới, tức là khuyến khích cộng đồng dân cư tự tìm hiểu
Hiến pháp. Có nghĩa là, dùng những người có uy tín, có trình độ trong từng
cộng đồng nói cho mọi người hiểu.
Thứ hai, phải có phương pháp tiếp cận mới, nghĩa là tiếp cận vào
từng cộng đồng dân cư. Các cộng đồng dân cư có trách nhiệm tuyên truyền
phổ biến cho mọi người hiểu Hiến pháp và cách tiếp cận theo các đoàn thể
nhân dân. Các đoàn thể nhân dân có trách nhiệm tuyên truyền phổ biến
Hiến pháp cho đoàn viên, hội viên của mình.
Thứ ba, phải có cách làm mới. Đó là: đổi mới cách đánh giá hiệu quả
công tác tuyên truyền phổ biến Hiến pháp. Thay cho việc đánh giá “tổng số
mũi tên bắn ra”-tức là chỉ đánh giá các sản phẩm trung gian như: in được
bao nhiêu tài liệu, phát được cho bao nhiêu người dân, tổ chức được bao
nhiêu đợt học tập, với bao nhiêu lượt người tham gia? bằng phải tính
“tổng số mũi tên trúng đích”-tức là phải đánh giá hiệu quả cuối cùng: nhận
thức và hành vi của người dân đối với Hiến pháp thế nào. Rất cần đánh giá
tác động của việc tuyên truyền phổ biến Hiến pháp đến cộng đồng dân cư.
TS Miều cho rằng, cần có cách làm mới để tuyên truyền phổ biến và
tổ chức thực hiện Hiến pháp, nghĩa là phải chọn đối tượng chính của đợt
tuyên truyền phổ biến Hiến pháp lần này.
“Tôi đề xuất, lấy trường học làm trung tâm, lấy học sinh và sinh viên


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status