Nghiên cứu sự đa dạng thực vật bậc cao có mạch tại núi Cuống, huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh làm cơ sở cho công tác bảo tồn - Pdf 25

i

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN


Phạm Thị Huệ

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN


Phạm Thị Huệ
NGHIÊN CỨU SỰ ĐA DẠNG THỰC VẬT BẬC CAO
CÓ MẠCH TẠI NÚI CUỐNG, HUYỆN ĐẦM HÀ, TỈNH
QUẢNG NINH LÀM CƠ SỞ CHO CÔNG TÁC BẢO TỒN


Chƣơng 2 - ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI 19
2.1. Vị trí địa lý 19
2.2. Địa chất và thổ nhƣỡng 19
2.3. Khí hậu 20
2.4. Thủy văn 21
2.5. Điều kiện kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu 22
2.5.1. Dân số 22
2.5.2. Tập quán lao động và cơ sở hạ tầng 23
Chƣơng 3 - ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25
iv

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu 25
3.2. Mục tiêu nghiên cứu 25
3.3. Nội dung nghiên cứu 25
3.4. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 26
3.5. Phƣơng pháp nghiên cứu 26
3.5.1. Phương pháp kế thừa 26
3.5.2. Phương pháp chuyên gia 26
3.5.3. Phương pháp nghiên cứu đa dạng thực vật 27
3.5.4. Đánh giá đa dạng sinh học 31
Chƣơng 4 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 33
4.1. Xác định và xây dựng danh lục loài 33
4.2. Đa dạng về phân loại hệ thực vật ngập mặn tại đảo Núi Cuống. 34
4.2.1. Đa dạng ở mức độ ngành 34
4.2.2. Đa dạng ở mức độ họ 38
4.2.3. Đa dạng ở mức độ chi 40
4.3. Đa dạng về các yếu tố địa lý 42
4.3.1. Đa dạng các yếu tố địa lý của chi 42
4.3.2. Đa dạng các yếu tố địa lý của loài 45
4.4. Đa dạng về dạng sống 49

Bảng 1. Sự phân bố các taxon trong các ngành của hệ thực vật thuộc đảo Núi
Cuống. 33
Bảng 2. Bảng so sánh tỷ lệ phần trăm số loài của Hệ thực vật đảo Núi Cuống và Hệ
thực vật Vườn quốc gia Bái Tử Long 36
Bảng 3. Sự phân bố các taxon trong ngành Hạt kín tại đảo Núi Cuống. 37
Bảng 4. Các họ đa dạng nhất của hệ thực vật đảo Núi Cuống 39
Bảng 5. Thống kê các chi đa dạng nhất thuộc đảo Núi Cuống 41
Bảng 6. Sự phân bố yếu tố địa lý của chi tại đảo Núi Cuống 43
Bảng 7. Sự phân bố các yếu tố địa lý bậc loài của hệ thực vật đảo Núi Cuống. 45
Bảng 8. Thống kê dạng sống của các loài thuộc hệ thực vật đảo Núi Cuống 50
Bảng 9. Thống kê các dạng sống của các loài thuộc nhóm cây chồi trên. 51
Bảng 10. Giá trị sử dụng của hệ thực vật của đảo Núi Cuống 53
Bảng 11. Bảng thống kê số công dụng của các loài thực vật tại 54
Bảng 12. Thống kê các giá trị sử dụng của hệ thực vật đảo Núi Cuống 56
Bảng 13. Thống kê các loài đang bị đe dọa tại đảo Núi Cuống theo Sách Đỏ Việt
Nam năm 2007 và nghị định 32 -2006/CP của chính phủ, phần thực vật. 59
vii

DANH MỤC HÌNH
Hình 1. Sự phân bố loài của các taxon trong các ngành của 34
Hình 2. Tỷ trọng các ngành thực vật bậc cao có mạch tại đảo Núi Cuống 35
Hình 3. Sự phân bố tỷ trọng của hai lớp trong ngành Hạt kín. 38
Hình 4. Tỷ lệ phần trăm số loài của 14 chi đa dạng nhất của khu hệ thực vật tại đảo
Núi Cuống. 42

1

MỞ ĐẦU
Việt Nam là một trong những quốc gia được đánh giá có tính đa dạng sinh học
(ĐDSH) cao trên thế giới. Sự đa dạng và phong phú của các hệ sinh thái tự nhiên là
một trong 3 yếu tố chính làm nên sự ĐDSH này. Tuy nhiên, ĐDSH của Việt Nam
đang bị suy thoái nghiêm trọng, trong đó có các hệ sinh thái rừng ngập mặn (RNM).
Rừng ngập mặn (RNM) là một hệ sinh thái đa dạng có nhiều tài nguyên quí
giá và có vai trò quan trọng, đóng góp cho đời sống con người, đặc biệt là cư dân
vùng cửa sông ven biển. Nó là nơi cư trú và cung cấp thức ăn cho các loài thuỷ sản,
nó được ví như lá chắn xanh bảo vệ vùng cửa sông, cửa biển để chống xói lở, hạn
chế tác hại của gió bão, mở rộng đất liền, RNM cũng là tài nguyên du lịch sinh thái
đầy tiềm năng. Đa dạng sinh học của RNM Việt Nam rất phong phú. Hệ thực vật
chủ yếu gồm 37 loài CNM thực thụ và 72 loài cây tham gia.Các loài cây thống kê
theo giá trị sử dụng gồm: 30 loài cung cấp gỗ, than, củi; 14 loài cung cấp tannin; 21
loài làm dược liệu và để nuôi ong; 24 loài có thể dùng làm phân xanh và 1 loài có
khả năng cung cấp dịch nhựa cho chế biến nước giải khát, đường và rượu. [17] Tuy
nhiên trong những thập niên qua, RNM nước ta bị tàn phá rất nhiều do chiến tranh,

tại đảo Núi Cuống trước đây có chất lượng rừng tốt, rất phong phú về số lượng loài
cây, về hệ sinh thái cư trú các loài hải sản và động vật đã đem lại nguồn lợi thu
nhập tốt cho người dân địa phương. Tuy nhiên trong những năm qua thì diện tích
rừng ở đây đã bị suy giảm đáng kể. Hiện tại, những diện tích rừng còn sót lại vẫn
đang tiếp tục bị đe dọa tàn phá và suy thoái do liên quan tới những lý do nêu trên và
làm ảnh hưởng xấu nghiêm trọng tới môi trường, sản xuất và đời sống của người
dân địa phương. Chính vì vậy trong những năm tiếp theo công tác nghiên cứu, đánh
giá để đưa ra biện pháp phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái RNM là rất cần thiết.
Xuất phát từ lý do trên chúng tôi đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu sự đa dạng thực
vật bậc cao có mạch tại Núi Cuống, huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh làm cơ sở
cho công tác bảo tồn”.

3

Chƣơng 1 - TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Với vị trí địa lý đặc thù, Việt Nam được biết đến như là quốc gia phong phú
về các kiểu hệ sinh thái tự nhiên, đặc biệt là hệ sinh thái rừng tự nhiên trên cạn, đất
ngập nước, đồi núi đá vôi, đất khô và các hệ sinh thái tự nhiên dọc theo ven biển và
các hải đảo. Theo số liệu điều tra, ĐDSH ở nước ta tập trung ở một số khu vực chủ
yếu như: các khu rừng đặc dụng tự nhiên (khoảng 1,8 triệu ha trên tổng số 14 triệu
ha tương đương với khoảng 13% diện tích rừng trên cả nước), các vùng đất ngập
nước tự nhiên (khoảng 1,7 triệu ha trên tổng số hơn 10 triệu ha tương đương 17%
diện tích đất ngập nước trên cả nước), các vùng đồi, núi đặc biệt là núi đá vôi
(khoảng 1,5 triệu ha trên tổng số hơn 5 triệu ha tương đương 24% tổng diện tích đất
đồi núi trên cả nước), các hệ sinh thái tự nhiên dọc theo bờ biển dài hơn 3200 km và
các hải đảo. Thời gian qua, cũng do nhận thức của người dân còn yếu kém, hệ thống
pháp luật liên quan chưa hoàn thiện kết hợp với tổ chức quản lý tài nguyên không
chặt chẽ nên Việt Nam đã bị mất nhiều nguồn gen quý hiếm. Hàng năm có đến 300-
400 giống tại các địa phương có nguy cơ cao bị xói mòn nguồn gen, trong đó có
nhiều giống bản địa, quý hiếm. Vậy trong thời gian tới chúng ta phải tập trung

được coi là cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác quản lý và bảo vệ các hệ sinh thái
RNM ở nước ta. Tiếp sau đó, vào năm 1992 Công ước ĐDSH được thông qua tại
Hội Nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển bền vững tại Rio de Janero
(Brazin), có hiệu lực từ ngày 29/12/1993. Tính đến tháng 5 năm 2009 đã có 191
quốc gia là thành viên của Công ước này.Việt Nam đã chính thức gia nhập Công
ước vào ngày 16/11/1994. Mục tiêu chính của công ước là nhằm bảo tồn ĐDSH, sử
dụng bền vững và hợp lý các thành phần ĐDSH cũng như những lợi ích thu được từ
việc sử dụng tài nguyên sinh học. Đây được xem là tiền đề quan trọng cho việc phát
triển lĩnh vực pháp luật về ĐDSH với tư cách là một bộ phận quan trọng của pháp
luật môi trường. Kể từ thời điểm này, các quy định pháp luật về bảo vệ ĐDSH được
ban hành ngày càng nhiều, theo hướng hoàn thiện hơn, như: Kế hoạch hành động
quốc gia về ĐDSH (ban hành kèm theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số
845/TTg ngày 22/12/1995); Nghị định 109/2003/NĐ-CP về quản lý, bảo tồn và phát
5

triển các vùng đất ngập nước; Quyết định số 661/QĐ – TTg (1998) của thủ tướng
Chính phủ về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện dự án trồng mới
5 triệu hecta rừng….Để hoàn thiện hệ thống pháp luật về ĐDSH, luật hóa có hệ
thống và thống nhất các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thực hiện
các cam kết quốc tế về ĐDSH phục vụ mục tiêu phát triển bền vững đất nước, Luật
ĐDSH đã được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ
họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 7 năm 2009 nhằm đáp ứng các yêu cầu trên . Luật có 8 chương, 78 điều. Luật
quy định về nguyên tắc và chính sách ba
̉
o tồn va
̀
pha
́
t triê

Mãi đến Linaeus (1707-1778) với bảng phân loại được coi là đỉnh cao của
thời kì phân loại nhân tạo.
Nói chung các nhà phân loại thực vật từ đầu cho tới Linaeus chỉ dựa vào một
hay hai tính chất được lựa chọn tùy ý để phân loại thực vật nên chưa phản ánh được
các nhóm tự nhiên của thực vật.
Sau Linaeus các nhà thực vật đã không phân loại thực vật dựa trên một hay
một vài tính chất được lựa chọn tùy ý, mà vào toàn bộ các đặc điểm chính của thực
vật nên đã dần thiết lập được các nhóm tự nhiên của thực vật. Có thể kể đến một số
hệ thống tự nhiên như:
Hệ thống phân loại của Bernard Jussieu (1699-1777) và cháu ông là A.L.de
Jussieu (1749-1836) đã sắp xếp thực vật theo trình tự từ thấp đến cao, xếp chúng
vào các họ, giữa các họ đều có những dạng chuyển tiếp, phản ánh được mối quan hệ
giữa các nhóm thực vật với nhau. A.L. de Jussieu đã chia thực vật thành thực vật
không lá mầm (gồm Tảo, Nấm, Rêu, Dương xỉ) và thực vật có lá mầm (Tùng bách,
thực vật Một lá mầm và thực vật Hai lá mầm).
Người có công lớn trong giai đoạn này là O.P. de Candole (1778-1841), đã
đưa số họ thực vật lên 161 họ. Ông đã phân loại và mô tả tất cả các loài cây có
mạch đã biết trong bộ “Prodromus Systematic Naturaeis regni Vegetabilis”.
R. Brown (1773-1858) là người đầu tiên nghiên cứu tỉ mỉ về tùng bách và
tuế, do đó đã tách rời Hạt trần ra khỏi Hạt kín.
Vào giữa thế kỉ XIX là một giai đoạn bắt đầu của ý tưởng tiến hóa. Khi tác
phẩm “Nguồn gốc các loài” của Darwin ra đời năm 1858 thì khoa học về sinh vật đã
có những thay đổi lớn.
7

Vào thế kỉ XX, với các thành tựu của các môn khoa học đã hỗ trợ nhiều cho
các nghiên cứu về đa dạng thực vật, tạo cơ sở về dẫn liệu và phương pháp để xây
dựng các bảng hệ thống tiến hóa.
Cho tới nay có nhiều hệ thống phân loại khác nhau: ở Nga có hệ thống của
Kuznetxov, Busch, Kursanov, Grossein, Takhtajan… Vì vậy phân loại học ngày

kể đến H.N.Molden-ker, ông chủ yếu tập trung phân loại chi Mắm (Avicennia) và
tổng quan về chi này. Năm 1976 V. J. Chapman, nhà sinh lý thực vật ở Papua New
Guinea đã cho xuất bản cuốn “Mangrove vegetation” 447 trang, năm 1977 chủ biên
tập Ecosystems of the World, vol.l-Wet coastal Ecosystes (428 trang). Sau này ông
còn viết một số tài liệu khác và tham gia vào nhóm biên soạn cuốn “The Mangrove
Ecosystems Researoh methods” do UNESCO yêu cầu. Cuối năm 1980 ông mất đột
ngột và để lại một số công trình nghiên cứu còn chưa hoàn thiện.
Cho tới sau này khi E.Odum phát hiện ra tác dụng to lớn của mùn bã loài đước
đỏ trong chuỗi dinh dưỡng vùng cửa sông, ven biển Florida (1970) thì ngay sau đó
RNM càng trở thành một đối tượng được các nhà khoa học và nhiều nước trên thế
giới tập trung nghiên cứu. Tuy nhiên từ giai đoạn 1978 - 1984 song song với việc
nghiên cứu thì tình hình khai thác quá mức các tài nguyên RNM ở các nước diễn ra
mạnh mẽ làm cho diện tích rừng bị thu hẹp nhanh chóng, đất bị thoái hóa và gây ra
nhiều hậu quả xấu về môi trường khiến cho các nhà khoa học lo ngại, một số tổ
chức quốc tế đã được thành lập và để tham gia vào các công tác bảo tồn nguồn gen,
nâng cao ý thức cộng đồng trong công tác bảo vệ RNM… Hiện nay các tổ chức
quốc tế về bảo vệ RNM đã được hình thành ở mọi quốc gia, các nghiên cứu để
hướng tới việc bảo tồn loài cũng được phát huy mạnh mẽ ở mọi quốc gia.
1.2. Nghiên cứu đa dạng thực vật ở Việt Nam
1.2.1. Nghiên cứu đa dạng thực vật ở Việt Nam
Tìm hiểu những công trình nghiên cứu về thực vật ở Việt Nam sẽ giúp chúng
tôi có cơ sở vững chắc cho công trình nghiên cứu của mình.
9

Ở Việt Nam nhiều công trình nghiên cứu về phân loại thực vật cũng đã có từ
rất sớm đặc biệt phải kể tới Tuệ Tĩnh, năm 1417 ông đã mô tả 579 loài cây làm
thuốc. Thời Pháp thuộc, người Pháp đã đến Việt Nam nghiên cứu và để lại nhiều
công trình như Loureiro vào năm 1772 mô tả gần 700 loài cây trong cuốn “ Flora
cochichinensis”, năm 1879 Pierre xuất bản cuốn “ Flore forestière de cochinchine”
gồm 800 loài cây gỗ khác nhau, sau này công trình lớn nhất phải kể tới là của H.

giá trị làm thuốc.
Đặc biệt, vào năm 1996 tập thể các nhà khoa học đã cho xuất bản cuốn
“Sách đỏ Việt Nam, phần Thực vật” trong đó mô tả 356 loài thực vật quí hiếm ở
nước ta hiện đang bị đe dọa ở các mức độ khác nhau, cần có biện pháp bảo vệ. Đến
năm 2007, cuốn sách được tái bản, tu chỉnh và bổ sung, riêng phần thực vật, số loài
bị đe dọa lên đến 462 loài.
Để hoàn thiện chính xác về danh pháp của các loài thực vật không thể không
nhắc đến tài liệu tra cứu dưới nhan đề “Danh lục các loài thực vật Việt Nam” gồm 3
tập. Tập 1 do Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường, Đại học Quốc gia Hà
Nội biên tập, nhà xuất bản nông nghiệp Hà Nội năm 2001. Các tập tiếp theo (tập 2,
tập 3) do Giáo sư Nguyễn Tiến Bân là chủ biên soạn. Bộ sách đã đưa ra tên gọi các
loài thực vật thật chính xác, bao gồm tên gọi của cả thực vật bậc thấp, thực vật bậc
cao bao gồm tất cả các ngành ở Việt Nam. Đây là những tài liệu quan trọng làm cơ
sở cho công tác đánh giá tính đa dạng của các hệ thực vật về sau này.
1.2.2. Nghiên cứu về RNM ở Việt Nam
Cùng với các nhà nghiên cứu trên thế giới thì ở Việt Nam các tác giả cũng đã
bắt tay vào nghiên cứu các vấn đề liên quan bắt đầu từ đầu thập kỷ 80. Đầu tiên
theo B. Rollet (1981), vào cuối thế kỷ 19 chỉ có 3 tài liệu: đầu tiên là tác phẩm “Cây
dừa nước ở Nam Kỳ” năm 1878 nhưng không ghi tên tác giả, thứ hai là “Hệ thực
vật Nam Kỳ” năm 1879 của L. Pierre, đề cập đến một số loài cây ngập mặn, thứ ba
là cuốn sách “Trên toàn trái đất” của O.Kuntz (1881), trong sách này ông đã tường
thuật về chuyến đi Colombia, Indonesia, Việt Nam và Malaysia, có một số nét về
cây ngặp mặn.
11

Cho tới khi nước ta dành độc lập (1945) có tổng cộng 47 tài liệu viết về tài
nguyên rừng. Sau này có một số tài liệu điều tra về thảm thực vật RNM ở các vùng
nhưng nhiều nhất là các tài liệu viết về hậu quả sử dụng chất diệt cỏ trong chiến
tranh đã làm tiêu hủy rất nhiều cánh RNM.
Công trình nghiên cứu về RNM đầu tiên mang tính chất tổng quát nhất là luận

nhận giải thưởng Cosmos - như một sự ghi nhận của bạn bè quốc tế đối với vị giáo
sư đã dành cả đời nghiên cứu về rừng ngập mặn Việt Nam và ông được mọi người
biết đến với những cái tên thân thuộc “Giáo sư của những cánh RNM”.
Nền tảng về RNM đã được Giáo sư Phan Nguyên Hồng và Cộng sự khai thác
và nghiên cứu rất cụ thể, tuy nhiên ngày nay với áp lực về dân số, sức ép về kinh tế,
các hệ sinh thái RNM ở nhiều nước đã và đang bị khai thác quá mức và bị phá hủy
đồng loạt cho nên diện tích RNM đã và đang bị thu hẹp, tài nguyên đất suy giảm
nhanh chóng. Vì vậy vấn đề đặt ra lúc này cho các nhà nghiên cứu và toàn thể cộng
đồng là phải có kế hoạch tìm hiểu, đánh giá và bảo tồn những giá trị của RNM để
chúng mãi mãi là nguồn tài nguyên quý giá đối với con người và quốc gia.
1.3. Nghiên cứu về các yếu tố địa lý
Những nghiên cứu về hệ thực vật là một phần cơ bản để phân loại chúng, tuy
nhiên một yếu tố quan trọng để đánh giá sự đa dạng của một hệ thực vật đó là
nghiên cứu về các yếu tố địa lý.
Gagnepain là người đầu tiên sắp xếp các nhóm phân loại, tổng hợp các chi,
loài, họ thực vật và phân tích các khía cạnh về mặt địa lý thực vật và tính đặc hữu
của chúng trong hai tác phẩm “Góp phần nghiên cứu hệ thực vật Đông Dương”
(1926) và “Giới thiệu về hệ thực vật Đông Dương” (1944). Ông đã chia hệ thực vật
Đông Dương thành 5 yếu tố.
Yếu tố Trung Quốc
33,8%
Yếu tố nhập nội và phân bố rộng
20,8%
13

Yếu tố Xích Kim - Himalaya
18,5%
Yếu tố Malaysia và nhiệt đới khác
15,0%
Yếu tố đặc hữu bán đảo Đông Dương

 Nhiệt đới 7%
 Ôn đới 3%
 Thế giới 1%
Nhân tố nhập nội 3,08%
Tổng 100%
Căn cứ các thang phân loại của Pócs Tamás (1965), Ngô Chinh Dật (1993), Lê
Trần Chấn (1994) và trên cơ sở các công trình nghiên cứu của mình, Nguyễn Nghĩa
Thìn (1999) đã xây dựng thang phân loại các yếu tố địa lý thực vật cho hệ thực vật
Việt Nam và áp dụng cho việc sắp xếp các chi thực vật Việt Nam vào các yếu tố địa
lý. Thang phân loại này đã được tác giả chỉnh sửa, bổ sung theo Nguyễn Nghĩa Thì,
2004, các yếu tố địa lý cấu thành của một hệ thực vật bao gồm các nhóm sau:
1. Yếu tố toàn thế giới
2. Liên nhiệt đới
2.1. Nhiệt đới châu Á, châu Úc và châu Mỹ
2.2. Nhiệt đới châu Á, châu Phi và châu Mỹ
2.3. Nhiệt đới châu Á và Mỹ
3. Cổ nhiệt đới
3.1. Nhiệt đới châu Á - châu Úc
3.2. Nhiệt đới châu Á - châu Phi
15

4. Nhiệt đới châu Á (Inđô - Malêsia)
4.1. Đông Dương - Malesia
4.2. Đông Dương - Ấn Độ hay Lục địa châu Á nhiệt đới
4.3. Đông Dương-Himalaya hay lục địa Đông Nam Á (trừ Malêsia, Ấn
Độ)
4.4. Đông Dương - Nam Trung Quốc
4.5. Đông Dương
5. Ôn đới Bắc
5.1. Đông Á - Bắc Mỹ

mô tả đầy đủ sau đó được xuất bản cùng năm bằng tiếng Pháp. Ông tiếp tục mô tả tỉ
mỉ, chi tiết hơn và năm 1907 cho xuất bản bằng tiếng Đan Mạch. Bản thảo đầu tiên
và phiên bản năm 1907 rất lâu sau đó mới được xuất bản bằng tiếng Anh bởi các
cộng sự của ông. Mấu chốt để sắp xếp các nhóm dạng sống mà ông đưa ra chính là
xem thời kì khó khăn cho sự sống (do lạnh hay khô hay cả hai) loài đó tồn tại dưới
dạng sống nào: chỉ là hạt nghỉ hay còn có cả chồi, nếu có chồi thì chồi nằm ở vị trí
nào so với mặt đất, có được bảo vệ hay không Thang phân loại này gồm 6 dạng
sống cơ bản [38]
1. Cây chồi trên (Phanerophytes) - Ph: gồm những cây có chồi trong mùa khó
khăn nằm cách mặt đất từ 25cm trở lên.
a) Cây chồi trên to (Megaphanerophytes) - Mg: là cây gỗ hay dây leo gỗ cao
từ 25m trở lên.
b) Cây chồi trên nhỡ (Mesophanerophytes) - Me: gồm những cây gỗ hay dây
leo gỗ từ 8 - 25m.
c) Cây chồi trên nhỏ (Microphanerophytes) - Mi: là cây gỗ nhỏ, cây bụi, dây
leo gỗ, có thân cây hóa gỗ, cao từ 2 - 8m.
d) Cây chồi trên lùn (Nanophanerophytes) - Na: gồm cây gỗ lùn, cây bụi hay
cây nửa bụi, dây leo gỗ nhỏ, có thân cây hóa gỗ, cao từ 25 - 200cm.
17

e) Cây bì sinh (Epiphytes) - Ep: gồm các loài cây bì sinh sống lâu năm trên
thân, cành cây gỗ, trên vách đá.
f) Cây mọng nước (Succulentes) - Suc
g) Dây leo gỗ (Lianophanerophytes) – Lp : gồm các loài dây leo thân hoá gỗ.
h) Cây chồi trên thân thảo (Herbo-phanerophytes) – Hp : những cây chồi trên
không có chất gỗ, thân thảo sống nhiều năm.
2. Cây chồi sát đất (Chamaephytes) - Ch: gồm những cây có chồi trong mùa
khó khăn cách mặt đất dưới 25cm, mùa đông được lớp tuyết hay lá khô bao phủ
chống lạnh hay chống khô.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status