Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy - Pdf 26

PHÂN TÍCH BÀI THƠ “ÁNH TRĂNG” CỦA NGUYỄN DUY
Bài tham khảo:
Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng
chiến chông Mĩ cứu nước đau thương và oanh liệt của dân tộc. Bài thơ Ánh trăng
được viết tại thành phố Hồ Chí Minh năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước.
Trong cuộc sống hòa bình, một số người đã từng trải qua thử thách, gian khổ,
từng chứng kiến sự hi sinh lớn lao của đồng đội và nhân dân, từng gắn bó sâu nặng
với thiên nhiên nhưng đã vội quên những gian nan, cơ cực và những kỉ niệm thắm
thiết nghĩa tình của một thời chưa xa.
Bài thơ là một lần “giật mình” nhìn lại của Nguyễn Duy. Nó có tác dụng thức tỉnh
bao người trước cái điều vô tình ấy.
Ánh trăng trước hết là tiếng lòng, là sự tự vấn lương tâm của riêng Nguyễn
Duy. Nhà thơ đứng giữa hôm nay mà suy ngẫm về thời đã qua và từ tâm trạng
riêng, tiếng thơ ông cất lên như một lời nhắc nhở. Vầng trăng ở đây không chỉ là
một hình ảnh cụ thể của đất trời mà còn là biểu tượng cho một quá khứ đẹp đẽ, là
mối liên hệ giữa tâm tình riêng và ý nghĩa phổ biến rộng lớn, giữa nội dung cụ thể
và tính khái quát của bài thơ.
Bài thơ không chỉ đề cập đến thái độ thờ ơ, quay lưng đối với những hi sinh,
mất mát của thời chiến tranh mà còn là chuyện nghĩa tình, nhớ về cội nguồn, nhớ
về những người đã khuất. Cao hơn nữa, Ánh trăng còn là lời nhắc nhở mỗi con
người về lẽ sống chung thủy với chính mình.
Sự kết hợp khéo léo giữa tự sự với trữ tình đã tạo cho bài thơ dáng dấp của
một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian. Giọng điệu tâm tình được thể
hiện bằng thể thơ năm chữ. Hai khổ thơ đầu là cảm xúc của nhà thơ về ánh trăng
khi chiến đấu trong rừng. Khổ thứ ba là cảm xúc trước vầng trăng trong thành phố
hoà bình. Nhịp thơ ở phần này tự nhiên, nhịp nhàng. Đến khổ thứ tư, giọng thơ
thay đổi, thể hiện thái độ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của tác giả trước sự xuất hiện
đột ngột của vầng trăng trong đêm mất điện. Giọng thơ trầm lắng, thiết tha ở hai
khổ cuối rất hợp với sự hồi tưởng và suy tư lặng lẽ.
Dòng cảm xúc trữ tình của nhà thơ cũng tuôn chảy theo những lời tự sự.

Khổ thư cuối bài thế hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng
trăng và cũng là chiều sâu tư tương mang tính triết lí của tác phẩm:
Trăng cứ tròn vành vạnh như quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng thể phai mờ.
Ta có thể hiểu khác đi là những người cầm súng bảo vệ Tổ quốc đã ngã xuống trên
mảnh đất này không bao giờ tính toán thiệt hơn. Đất nước, dân tộc mãi mãi ghi
nhớ công lao của họ. Ánh trăng im phăng phắc không nói mà nói bao điều, nhắc
nhở nhà thơ (và cả mỗi chúng ta) rằng: con người có thể vô tình, có thể lãng quên
nhưng thiên nhiên và nghĩa tình trong quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt.
Bài thơ Ánh trăng là lời tự nhắc nhở của Nguyễn Duy về thái độ, tình cảm của
mình đối với quá khứ gian khổ hào hùng của đất nước.
Tuy nhiên, bài thơ không phải là lời nhắc nhở riêng ai, mà nhắc nhở cả một thế
hệ đã từng trải qua những năm tháng gian khổ của chiến tranh, từng gắn bó với
thiên nhiên, được nhân dân đùm bọc, che chở, nay được may mắn sống trong hoà
bình thì đừng bao giờ quên quá khứ. Hơn thế, bài thơ còn có ý nghĩa với nhiều
người, nhiều thời bởi nó đặt ra vấn đề thái độ trân trọng và biết ơn đối với quá khứ,
những người đã khuất và đối với cả chính mình. Bài thơ nằm trong mạch cảm xúc
uống nước nhớ nguồn. Đây là truyền thông tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta tự bao
đời.
Bài tham khảo 2:
Nguyễn Duy thuộc thế hệ làm thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước.Vừa mới xuất hiện, Nguyễn Duy đã nổi tiếng với bài “Tre Việt
Nam”. Bài “Hơi ấm ổ rơm” của ông đã từng đoạt giải hưởng báo Văn nghệ. “Ánh
trăng” cũng là một trong những bài thơ được nhiều độc giả yêu thích bởi tình cảm
chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ mới lạ.
Qua bài thơ, tác giả đã kín đáo bộc lộ những suy nghĩ, chiêm nghiệm về một lẽ
sống cao quý trong cuộc đời của mỗi con người.
Khổ thơ mở đầu như những lời tự sự ghi lại những dòng hồi ức của tác giả về quá
khứ:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể

“vầng trăng thành tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” thể hiện tình cảm nặng lòng của
tác giả đối với trăng biết nhường nào!
Từ “ngỡ” ở đầu câu thơ thứ ba như báo trước một điều gì sẽ xảy ra trái với dự
đoán và suy nghĩ ban đầu…
Điều ấy đã trở thành hiện thực, điều “ngỡ không bao giờ quên” ấy bây giờ đã
quên:
“Từ hồi về thành phố
…như người dưng qua đường”
Trước đây tác giả sống với sông, với bể, với rừng, bây giờ môi trường sống đã
thay đổi. Tác giả về sống với thành phố. Đời sống cũng thay đổi theo, quen “ánh
điện, cửa gương”. “Ánh điện” và “cửa gương” tượng trưng cho cuộc sống sung túc,
đầy đủ sang trọng… dần dần “cái vầng trăng tình nghĩa” ngày nào bị tác giả lãng
quên. Phải chăng “vầng trăng” ở đây tượng trưng cho những năm tháng gian khổ
ấy. Đó là tình bạn, tình đồng chí được hình thành từ những tháng năm gian khổ ấy.
“Trăng” bây giờ thành “người dưng”… Hình ảnh nhân hóa ở đây thật sinh động
“đi qua ngõ”. Trăng đâu có cao xa vời vợi, trăng vẫn gần gũi thân thương vậy mà
con người thật lạnh lùng dửng dưng… Rõ ràng hoàn cảnh tác động đến con người
thật mạnh mẽ. Bởi thế người đời vẫn thường nhắc nhau: “Ngọt bùi nhớ lúc đắng
cay – Ra sông nhớ suối có ngày nhớ đêm”.
Khổ thơ này có kết cấu đối lập, một bên là “ánh điện, cửa gương” sáng lòa,
lộng lẫy, rực rỡ và một bên là “ánh trăng” dịu ngọt, thanh nhẹ. Đặt những hình ảnh
có vẻ đối lập bên nhau, Nguyễn Duy muốn bộc lộ kín đáo một lời tự thú chân
thành, nghiêm khắc.
Bài thơ được phát triển đến một tứ thơ có chút kịch tính:
“Thình lình đèn điện tắt
…đột ngột vầng trăng tròn”
Cử chỉ “vội bật tung cửa sổ” lúc bấy giờ chỉ là phản xạ hết sức tự nhiên của
một người quen với ánh sáng điện nay lại bị giam trong bóng tối, mong có được
một chút ánh sáng bên ngoài cho căn phòng đỡ tối tăm hơn mà thôi. Nhưng may
mắn thay cũng là trớ trêu thay, lúc ấy lại có trăng. Trăng trở nên quý giá biết bao

Ánh trăng hay là ánh nhìn? Vừa nghiêm khắc, lạnh lùng, vừa bao dung độ
lượng, “sự im lặng đáng sợ” ấy khiến kẻ trong cuộc phải “giật mình” vì đến lúc
này mới nhận rõ mình hơn. Cái “giật mình” chân thành thay cho một lời sám hối.
Đó chính là cái hay và độc đáo của bài thơ có sức cảm hóa lòng người.
Bài thơ gây được xúc động bởi cách diễn tả như một lời tâm sự chân thành, lời tự
nhắc nhở có giọng trầm tĩnh mà lắng sâu. Khổ thơ cuối của bài thơ mang chiều sâu
tư tưởng triết lý: vầng trăng cứ tròn đầy lặng lẽ, “kể chi người vô tình”, là biểu
tượng của sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn trong sáng
mà không hề đòi hỏi sự đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân
mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một
cách sâu sắc.
Với một giọng điệu thơ nhẹ nhàng, sâu lắng kết hợp với thể thơ ngũ ngôn và
việc không viết hoa chữ cái đầu dòng thơ – thể thơ phù hợp với việc tự sự, bộc lộ
cảm xúc, bài thơ “Ánh trăng” đã thực sự gây nhiều xúc động đối với bao độc giả.
Có lẽ ai đã từng đọc “Ánh trăng” cũng đều nghiêm khắc với chính mình như thế vì
một thời quá khứ chưa được đánh giá đúng mức. Vâng, muộn còn hơn không, mỗi
chúng ta đều phải có trách nhiệm với những gì thuộc về quá khứ. Hẳn “Ánh trăng”
không chỉ làm “giật mình” một Nguyễn Duy mà thôi!
Bài tham khảo 3:
Vầng trăng dịu mát, sáng trong, vầng trăng huyền diệu tròn đầy tự bao giờ đã
trở nên thân thương gắn bó với con người.Nếu vị thi tiên Lí Bạch khi xa quê đã
không thể quên ánh trăng trên đỉnh núi Nga Mi: “Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
Nếu Bác kính yêu coi trăng như bè bạn tri âm “TRăng vào cửa sổ đòi thơ”thì
Nguyễn Duy_nhà thơ trưởng thành thời kháng chiến chống Mỹ lại coi trăng là
nguồn sáng lung linh để thanh lọc tâm hồn, để ăn năn hối lỗi. Bài thơ “Ánh trăng”
(1978)của ông được khơi nguồn từ những cảm xúc chân thành và cao đẹp như thế
Bài thơ mang dnág dấp như một câu chuyện với lời kể mở đầu tự nhiên,trôi chảy
về mối quan hệ gán bó giữa trăng và nhà thơ:
Hồi nhỏ sống với đồng

Như người dưng qua đường
Cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói loà của ánh điện cửa gương,với những
vật dụng ngày càng hiện đại dường như đã làm lu mờ ánh sáng của vầng trăng.Tác
giả đã tạo ra sự đối lập giữa vầng trăng nghĩa tình trong quá khứ với vầng trăng xa
lạ như người dưng qua đường bây giờ.Là ánh trăng đã khác ánh trăng của ngày
xưa?Không! Ánh trăng vẫn thế vẫn gần gũi thân thương dịu dàng,chỉ có hoàn cảnh
sống của con người đã thay đổi khiến họ không nhận ra vẻ đẹp của vầng trăng tri
kỉ ngày xưa hay chính họ đã thờ ơ,họ quên đi.Thật xót xa cho vầng trăng tuổi thơ
vầng trăng đi bên nhau một thời chinh chiến như tri kỉ,vậy mà khi người ta sống
giữa phồn hoa đô thị thig nó lại bị lãng quên.Mấy chục năm về trước Tố Hữu cũng
đã từng băn khoăn, trăn trở về sự thay đổi của lòng người như thế trong bài thơ
Việt Bắc:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng
Phố cao còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ ánh trăng giữa rừng
Ánh trăng đã đựơc tác giả nhân hoá để gửi gắm suy tư về nhân tình thế
thái.Lời thơ so sánh của Nguyễn Duy “vầng trăng đi qua ngõ, như người dưng qua
đường” như xoáy vào lòng người một nỗi niềm xót xa nhức nhối,bới sự phản bội ở
đây không chỉ với lịch sử,với thiên nhiên mà còn với chính bản thân mình nữa
Cuộc đời như một dòng sông khi duị êm lặng lẽ, lúc cuộn sóng trào dâng,bởi
thế cuộc sống thời hiện đại sao có thể êm đềm mãi cho được
Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn_đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn
Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ của toàn bài,là sự chuyển biến có ý
nghĩa bước ngoặt của mạch cảm xúc, bộc lộ rõ chủ đề tư tưởng của bài thơ. Ở đây
không chỉ là sự thay thế ánh trăng cho ánh điện mà còn là sự thức tỉnh trong tiềm
thức của con người. Các từ “bật tung”, “đột ngột” diễn tả cảm xúc mạnh mẽ bất

lên tầm cao triết lí.Nếu ai đó có lúc quên đi những điều thiêng liêng tốt đẹp của
quá khứ thì phải có những lúc giật mình tỉnh thức trong hiện tại mới mong đạt
được những ân nghĩa tốt lành ở tương lai.Bởi đó là chân lí đã trở thành đạo lí của
người Việt ta:”Uống nước nhớ nguồn”
“Ánh trăng” nhẹ nhàng,trong sáng về câu chữ,tự nhiên, thuần thục về kết
cấu,bình dị, dễ hiểu về ý thơ,tha thiết trong giọng điệu.Bài thơ đã đem đến cho
người đọc một bài học sâu sắc:con người cần sống có trước có sau,có tình có nghĩa
để không bao giờ phải giật mình day dứt về những năm tháng vô tình hờ hững đã
qua. Dù xã hội ngày càng văn minh, hiện đại nhưng ánh trăng trên trời cao và cả
ánh trăng của Nguyễn Duy vẫn thật sự cần thiết với mỗi con người bởi nó là tấm
gương sáng nhất giúp chúng ta soi vào để nhận ra những gì trong lành tinh khôi
nhất của cuộc đời.Vầng trăng soi sáng những tâm hồn vô tình lãng quên.
Bài tham khảo 4:
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở
thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao
thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi
lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn
lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với
bài thớ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang
ý nghĩa triết lí sâu sắc.Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấn đẫm cái hồn của ca dao,
dân ca Việt Nam . Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái
nghĩa tình muôn đời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy.Trăng đối
với nhà thơ có ý nghĩa đặïc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và
vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảng tỉnh cho mỗi con người có lối
sống quên đi quá khứ.
Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức thuổi thơ của nhà thơ
và trong chiến tranh:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể

ấy sẽ phài làm quen với môt hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:
“Từ hồi về thành phá
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở
lại trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói loà. Thế nhưng con
người không thể kháng cự lại sự thay đổi đó.Người lính năm xưa nay cũng làm
quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. VàØ rồi trong chính sự
xa hoa đó, người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng
chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại
xem như không quen không biết. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự
có cái gì đó làm rung động lòng người đoc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con
người. Cũng chính phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một
“người bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của
phố phường, những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật
khác đã lôi kéo con gười ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của
con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá
khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi
những giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản củacuộc sống, đó chình là tình
cảm con người. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ xảy ra buộc ngươiø lính phải
đối mặt:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn -đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về
vật chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình
lình”, “đột ngột” ấy, người lính vôi bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì
đó. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay

Vầng trăng trong khổ thớ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kề chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Khổ thơ cuối cùnh mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng
và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và
không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng
phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủù khiến
cho con người giật mình. Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi
mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể
chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nũa
thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chởù cho
con người.
“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với
mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì
hãy thức tỉnh và tìmlại những giá trị đó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy
thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn.
Bài thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà cón có những nét đột phá trong nghệ
thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết
hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh,
giọng điệu tâm tình dã gấy ấn tượng mạnh trong lòng người đọc


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status