Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội theo triết học Mác – Lênin và thực tiễn xây dựng lối sống mới của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh An Giang từ năm 2002 đến nay - Pdf 27

Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cho đến nay, xây dựng lối sống mới trở thành một trong những mục tiêu
của xây dựng xã hội mới ở nước ta. Trước bối cảnh hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế thế giới, mở rộng
giao lưu và hợp tác quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá, những tác động tích cực rất
nhiều, nhưng đã bộc lộ những mặt trái của nó, trong đó có ảnh hưởng tiêu cực đến
tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân ta, nhất là đối với lối sống của thanh
niên. Bởi thanh niên là lớp người có phản ứng nhanh, nhạy bén với cái lạ, cái
mới. Những năm gần đây, một bộ phận thanh niên có nhiều biểu hiện nghiêng về
tự do cá nhân, bất chấp lợi ích công đồng. Xét về triết lý sống, bởi họ thiếu nhân
sinh quan đúng đắn trong giải quyết quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Thanh niên là lực lượng rường cột của nước nhà, góp phần tạo nên cục
diện mới cho đất nước. Vấn đề thanh niên và lối sống thanh niên luôn có tầm
quan trọng đặc biệt trong mỗi thời đại. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ
tư, khoá VII của Đảng đã chỉ rõ: “Sự nghiệp đổi mới có thành hay không, đất
nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay
không, cách mạng Việt Nam có vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa hay
không phần lớn phụ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn
luyện thế hệ thanh niên; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là
một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng” [5, tr. 82]. Để
thanh niên xứng đáng và phát huy vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cần xây dựng lối sống mới cho đối tượng này.
Hiện nay các lực lượng chống phá chủ nghĩa xã hội đang tiến hành chiến
lược “Diễn biến hoà bình”, nhắm trọng tâm vào chuyển biến các thế hệ thanh
niên, làm chuyển đổi hệ giá trị tư tưởng, nhân sinh quan của thanh niên. Đây là
chiến lược được chủ nghĩa đế quốc xác định là lâu dài, có thể 20 năm, 30 năm
hoặc lâu hơn nữa để chuyển hoá các nước xã hội chủ nghĩa theo hướng tự do tư
bản chủ nghĩa. Do vậy, xây dựng lối sống mới cho thanh niên không những là yêu
cầu khách quan của xã hội mà còn để chúng ta phòng chống chiến lược “Diễn

hệ giữa cá nhân và xã hội trong thực tiễn xây dựng lối sống mới
của tổ chức Đoàn TNCS HCM tỉnh An Giang.
- Góp vào thực tiễn những giải pháp nhằm phát huy hơn nữa hiệu
quả xây dựng lối sống mới của Đoàn TNCS HCM tỉnh An Giang
trong những năm sắp tới.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về mối quan hệ giữa cá
nhân và xã hội.
- Những chuẩn mực của lối sống mới được Đoàn TNCS HCM tỉnh
An Giang hướng tới để xây dựng.
- 2 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
- Những phong trào hành động thiết thực trong thực tiễn xây dựng
lối sống mới của Đoàn TNCS HCM tỉnh An Giang từ năm 2002
đến nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội theo quan điểm triết học Mác –
Lênin.
3.2 Khóa luận nghiên cứu những chuẩn mực thuộc nội dung xây dựng
lối sống mới chủ yếu ở góc cạnh thể hiện quan hệ giữa cá nhân trong quan hệ với
xã hội, tổng hợp các quan hệ ứng xử của cá nhân trong xã hội.
3.3 Chương trình hành động và hiệu quả xây dựng lối sống mới của
Đoàn TNCS HCM tỉnh An Giang từ năm 2002 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng các nguyên tắc của logíc biện chứng như: nguyên tắc toàn
diện, nguyên tắc lịch sử - cụ thể, nguyên tắc thực tiễn…để xem xét giải quyết vấn
đề trên cơ sở các tài liệu khoa học và thông tin mới nhất.
5. Đóng góp của khóa luận
Kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ góp phần:
5.1 Làm rõ vai trò thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng đối với

THỰC TIỂN XÂY DỰNG LỐI SỐNG MỚI CỦA ĐOÀN THANH
NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH TỈNH AN GIANG
TỪ NĂM 2002 ĐẾN NAY
2.1 Thực tiễn xây dựng lối sống mới của Đoàn TNCS HCM tỉnh An
Giang từ năm 2002 đến 2007
2.1.1 Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn
2.1.2 Những chương trình hành động của Đoàn TNCS HCM tỉnh An
Giang
2.1.3 Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế
2.2 Thực tiễn xây dựng lối sống mới của Đoàn TNCS HCM tỉnh An
Giang từ năm 2007 đến nay
2.2.1 Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn
2.2.2 Những chương trình hành động của Đoàn TNCS HCM tỉnh An
Giang
2.2.3 Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế
2.3 Giải pháp thực hiện việc xây dựng lối sống mới của Đoàn TNCS
HCM tỉnh An Giang
- 4 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ QUAN HỆ
GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI – MỘT CƠ SỞ LÝ LUẬN
ĐÚNG ĐẮN CỦA LỐI SỐNG MỚI
1.1 KHÁI NIỆM LỐI SỐNG
Khi giải thích phạm trù lối sống, các nhà xã hội học Mácxít thường nhắc
đến luận điểm nổi tiếng trong “Hệ tư tưởng Đức” của C.Mác và Ph.Ăngghen nói
về mối quan hệ giữa phương thức sản xuất và lối sống. Trong tác phẩm đó,
C.Mác đã khẳng định, sản xuất là yếu tố quyết định sự tồn tại của cá nhân và
phương thức sản xuất là hình thức hoạt động cơ bản của con người, là phương

Lối sống là phạm trù khái quát toàn bộ hoạt động của các dân tộc, các giai
cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh
tế - xã hội nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống: trong lao động
và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người, trong sinh hoạt tinh thần và
văn hóa [25, tr. 514].
Xét lối sống gắn liền với hoạt động của con người trong một hình thái kinh
tế - xã hội, GS. Thanh Lê quan niệm: “Lối sống là một hệ thống những nét căn
bản nói lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các tập đoàn xã hội, các cá
nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [27, tr.
24].
Ở góc độ xem xét tổng hòa các mặt cơ bản, khắc họa những đặc điểm cá
nhân, tập thể, giai cấp và cộng đồng, GS.TS.Nguyễn Văn Huyên cho rằng:
Lối sống là tổ hợp toàn bộ các mô hình, cách thức và phong thái sống của
con người thể hiện trong mọi phương thức cũng như lĩnh vực hoạt động, từ sản
xuất, tiêu dùng, sinh hoạt đến thái độ hành vi, cách tư duy, lối ứng xử giữa con
người với con người, giữa chủ thể với đối tượng, giữa điều kiện với phương tiện
và mục đích sống [ 24, tr. 29].
GS.TS. Đỗ Huy khẳng định: “Lối sống là tổng hòa những dạng hoạt động
sống điển hình của con người trong điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định” [23,
tr. 353].
Như vậy, điểm giống nhau cơ bản của các tác giả khi định nghĩa về lối
sống là ở chỗ cho rằng, lối sống bao gồm tất cả các lĩnh vực hoạt động sống cơ
- 6 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
bản của con người như: lao động, sinh hoạt, hoạt động xã hội – chính trị, giải
trí…
Có thể nêu khái quát một số đặc điểm cơ bản của lối sống sau đây:
Thứ nhất, nói đến lối sống là nói đến tổng hòa các hoạt động sống ổn định
của con người gắn liền với dân tộc, giai cấp, nhóm xã hội và các cá nhân trong
cộng đồng. Vì vậy, có thể phân loại lối sống theo ba cấp độ: lối sống của dân tộc

Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
và lý tưởng của cuộc đời. Hệ chuẩn mực xã hội được cá nhân thừa nhận và trở
thành tư tưởng đúng đắn chỉ đạo mọi hoạt động của lối sống.
Có thể nói, quan hệ giữa cá nhân và xã hội là một loại quan hệ xã hội một
khi được con người nhận thức đúng đắn sẽ trở thành nhân sinh quan đúng đắn
trong quá trình xây dựng lối sống. Với thế giới quan và phương pháp luận đúng
đắn, các tổ chức xã hội lấy đó làm một cơ sở lý luận cho tư tưởng xã hội và xây
dựng những thể chế xã hội, ở đó lối sống con người được hình thành.
1.2 NHỮNG QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ QUAN HỆ GIỮA CÁ
NHÂN VÀ XÃ HỘI
1.2.1 Những quan điểm triết học trước Mác
Vấn đề quan hệ giữa cá nhân và xã hội từ lâu vẫn tồn tại như một câu đố
lịch sử. Trước C.Mác, có rất nhiều câu trả lời nhưng nhìn chung các đáp án đều
có xu hướng tuyệt đối hóa một mặt nào đó: hoặc thủ tiêu cá nhân hoặc quá đề cao
cá nhân.
Khi bàn về tự do cá nhân, tựu trung có hai khuynh hướng chính: chủ nghĩa
duy tâm thần bí dưới mọi hình thức quan niệm rằng tự do cac nhân là tự do tuân
thủ mệnh lệnh siêu nhiên, tự do là tự do tinh thần, tự do duy ý chí, tự do là trạng
thái nội tâm của cá thể tách biệt mọi quan hệ hiện thực…
Đối lập với chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật thừa nhận tự do cá nhân
có thực ở trần gian. Con người có được tự do khi thoát khỏi niềm tin thần thánh.
Tự do gắn liền với dân chủ và bình đẳng xã hội. Đây là những quan điểm tiến bộ.
Tuy nhiên, chưa ai xác định đúng đắn con đường khắc phục tôn giáo và xây dựng
xã hội bình đẳng. Nhìn chung do những hạn chế về lịch sử, văn hóa, khoa học và
hạn chế về lập trường, giai cấp của triết gia nên vấn đề tự do cá nhân chưa được
phản ánh đúng đắn. Nguyên nhân của những sai lầm đó được C.Mác chỉ ra như
sau:
Một là, chưa giải quyết đúng đắn vấn đề bản chất con người, mối quan hệ
giữa cá nhân và xã hội. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, con người là sản phẩm của
thượng đế với một số phận nhất định. Con người là con người tôn giáo và thế

Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản nói nhiều đến cá nhân, cá tính, tự do
cá nhân…thực chất là nói đến cá nhân của giai cấp tư sản. C.Mác và Ph.Ăngghen
đã chỉ rõ, trong lao động làm thuê người vô sản mất hết cá tính. Lợi ích của giai
cấp công nhân và lợi ích cá nhân người công nhân. Các thành viên của giai cấp tư
sản thống trị, là những con người có đặc quyền, đặc lợi được khẳng định với tư
cách cá nhân và trở thành kiểu cá nhân đặc trưng của thời đại.
Triết học tư sản hiện đại có rất nhiều quan điểm khác nhau về mối quan hệ
giữa cá nhân và xã hội. Họ đề cập rất nhiều về tự do cá nhân trong quan hệ với xã
hội. Nổi lên có những quan điểm của chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa thực dụng.
Chủ nghĩa hiện sinh nêu nhiều luận giải về tự do cá nhân và chỉ ra những con
đường để thực hiện tự do cá nhân đó. Có thể thấy có hai khuynh hướng hiện sinh
chủ đạo:
Theo chủ nghĩa hiện sinh, tôn giáo trong quan hệ với xã hội, con người
đánh mất cái tôi “tha nhân chính là sự tranh chấp, người “giẫm chân” lên cái tôi
- 9 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
chủ thể. Cho nên, chính “tha nhân là địa ngục”. Chủ nghĩa hiện sinh coi tha hóa là
một hiện tượng vĩnh cửu, nó thuộc bản chất của con người. Bởi vì, tha hóa bắt
nguồn từ cuộc sống có những tương quan hiện sinh giữa tôi và tha nhân. Tất cả
mọi cái mà con người tiếp xúc trong cái “hiện thực phi lý” của cuộc đời, tức tha
nhân đều đã làm cho con người tha hóa bằng cách chiếm đoạt tự do đích thực của
nó. Mất tự do, con người không phải là mình nữa. Chủ nghĩa hiện sinh giải thích
nguyên nhân làm con người mất tự do và con người đã xa lìa chúa con người trở
thành tội lỗi. Do vậy, họ chủ trương để chấm dứt tội lỗi (tức sự tha hóa) tín hữu
phải quay về chúa”.
Một trường phái khác chủ nghĩa hiện sinh gọi là chủ nghĩa hiện sinh vô
thần phản đối và phủ nhận sự tồn tại phổ biến của những nguyên tắc đạo đức. Họ
cho rằng, tự do là bản chất của sự hiện sinh của cá nhân con người, nó không
phục tùng thượng đế hoặc bất cứ quyền uy nào, cũng không chịu sự ràng buộc
của bất cứ tính tất yếu khách quan nào, nó là tuyệt đối. Giá trị hiện sinh của cá

sinh là quan điểm của chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Một thời kỳ chủ nghĩa hiện
sinh đã ảnh hưởng xấu đến một bộ phận thanh niên miền Nam sống trong chế độ
cũ. Nhưng nay trong quá trình giao lưu với thế giới, tư tưởng của chủ nghĩa hiện
sinh càng ảnh hưởng đến một bộ phận thanh niên muốn được tự do tuyệt đối,
phản kháng lại những yêu cầu và trật tự xã hội.
Cùng với chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực chứng đề cao hiệu quả thực
tế, hiệu quả cảm tính của con người. Các nhà thực dụng cho rằng, trong mối quan
hệ với hoàn cảnh xã hội, con người lấy lợi ích thực tế làm tiêu chuẩn của chân lý.
Không có chân lý khách quan, chân lý phụ thuộc vào lợi ích thực tế của đời sống
dựa trên cảm nhận của cá nhân. Một số cá nhân đã lợi dụng lý luận về chân lý của
chủ nghĩa thực dụng để biện hộ cho mục đích vụ lợi tầm thường, nhằm thỏa mãn
nhu cầu cá nhân của mình.
Do vậy, khi lợi ích cá nhân phù hợp với lơi ích xã hội thì hành động của
con người đem lại giá trị chân thực. Ngược lại, khi lợi ích cá nhân mâu thuẫn với
lợi ích xã hội thì hành động của cá nhân trở thành điều ác. Từ đó lối sống thực
dụng có đặc trưng là chạy theo lợi ích cụ thể của đời thường trên các lĩnh vực.
Những lợi ích, giá trị thuộc về lý tưởng, niềm tin, hoài bão ít được chú ý. Một bộ
phận của chủ nghĩa thực dụng cho rằng tôn giáo là lợi ích thiêng liêng.
Qua đó có thể khẳng định rằng, chủ nghĩa thực dụng lấy hiệu quả thực tế
của đời sống làm nguyên tắc bền vững để thỏa mãn nhu cầu của con người dựa
trên phương châm sống của con người.
1.3 QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ QUAN HỆ
GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI
Quan hệ giữa cá nhân và xã hội là vấn đề có vị trí quan trọng đặc biệt
trong các học thuyết về xã hội. Các tác phẩm của các nhà kinh điển Mác – Lênin
đã đề cập đến vấn đề này một cách toàn diện, sâu sắc có hệ thống trên cơ sở của
chủ nghĩa duy vật lịch sử. C.Mác đã đúc kết lịch sử và tìm ra lời giải đáp đúng
đắn cho mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
1.3.1 Khái niệm cá nhân
- 11 -

C.Mác viết: “Những cá nhân nhất định, hoạt động sản xuất theo một phương thức
nhất định, đều nằm trong những quan hệ xã hội và chính trị nhất định” [34, tr.
275].
Ba là, hoạt động của cá nhân: đây là yếu tố quyết định sự hình thành nhân
cách vì cá nhân quan hệ với môi trường, với hoàn cảnh không phải chỉ chịu tác
động thụ động của hoàn cảnh mà thông qua họat động tác động trở lại đối với
hoàn cảnh. Thông qua hoạt động của mình ở nhiều lĩnh vực như: kinh tế, chính
- 12 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
trị, văn hóa, xã hội, khoa học, mọi hoạt động ứng xử đạo đức…mỗi người hình
thành cho mình một nhân cách riêng. Mỗi cá nhân có một thế giới quan riêng bao
gồm những quan điểm, lý tưởng, niềm tin, định hướng giá trị chung của cá nhân.
Thế giới quan riêng của cá nhân khi được hình thành nó trở lại chi phối hoạt động
của cá nhân.
Nói tóm lại, sự hình thành và phát triển nhân cách là sự thống nhất của ba
chiều sinh học, tâm lý và xã hội trong quá trình xác lập “cái tôi”.
Như vậy, ngoài những đặc điểm chung của “con người”, cá nhân rất khác
nhau. Xét cho cùng, sự khác nhau đó từ đâu? C.Mác chỉ ra rằng sự khác nhau ấy
là do phương thức sinh sống của họ quy định: “…Những cá nhân đúng y như
trong hiện thực, nghĩa là đúng y như họ đang hành động, sản xuất một cách vật
chất, tức là đúng y như họ đang hành động trong những giới hạn, tiền đề và điều
kiện vật chất nhất định, không phụ thuộc vào ý chí của họ”. Đồng thời C.Mác chỉ
rõ: “Những cá nhân biểu hiện đời sống của họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với
sản xuất của họ, với cái mà họ sản xuất ra cũng như với cách mà họ sản xuất. Do
đó, những cá nhân là thế nào, điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của
sự sản xuất của họ” [34, tr. 269].
1.3.2 Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Quan hệ giữa cá nhân và xã hội là vấn đề có ý nghĩa như một luận điểm
xuất phát để luận giải những vấn đề khác của lịch sử ngay từ khi triết học Mác ra
đời.

Quan hệ giữa cá nhân và xã hội biến đổi trong sự phát triển của lịch sử.
Điều đó không chỉ liên quan đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình
độ văn hóa, văn minh mà liên quan tới sự thay đổi của phương thức sản xuất, của
hình thái kinh tế - xã hội. Chỉ khi cách mạng làm thay đổi hình thái kinh tế - xã
hội thì quan hệ cá nhân và xã hội mới có sự thay đổi căn bản.
Trong chủ nghĩa tư bản, người công nhân gánh chịu mọi hậu quả nặng nề
của sự tha hóa. Kết quả hoạt động của con người, của công nhân ngày càng biến
thành một lực lượng thoát ra khỏi con người, xa lạ với con người, thống trị lại con
người, thù địch với con người, lực lượng đó là tư bản. Các điều kiện lao động của
người công nhân đối lập lại người công nhân. Trong những điều kiện đó, tự do
của người lao động chỉ mang tính hình thức, cá nhân con người không thể có sự
phát triển hài hòa và toàn diện. Điều kiện sống và làm việc của công nhân tồi tệ
hơn khi họ mất việc làm; khi đó người lao động càng không thể khẳng định mình
với tư cách cá nhân. Chỉ khi nào các đối kháng giai cấp trước toàn xã hội đã bị
loại bỏ, khi người lao động thực sự làm chủ các điều kiện vật chất của người lao
động, họ mới thực sự trở thành người lao động tự do. Và cá nhân người lao động,
với tư cách con người mới được khẳng định.
Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội có những nội dung thống nhất với
quan hệ giữa cá nhân và tập thể, chúng đều dựa trên cơ sở lợi ích, biểu hiện mối
quan hệ giữa cái bộ phận với cái toàn thể, giữa khách quan và chủ quan.
Mặt khách quan biểu hiện ở trình độ phát triển của xã hội về nhiều mặt.
Mặt chủ quan biểu hiện ở năng lực nhận thức và vận dụng quy luật xã hội phù
- 14 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
hợp với mục đích của con người. Do vậy, việc tổ chức các hoạt động xã hội có
vai trò to lớn trong việc kết hợp giữa mặt khách quan và mặt chủ quan sao cho xã
hội được tiến bộ và mỗi cá nhân được tồn tại và phát triển nhân cách một cách hài
hòa.
Trong “Bút kí triết học”, Lênin đã chỉ rõ: “Thật ra mục đích của con người
là do thế giới khách quan sản sinh ra và lấy thế giới khách quan làm tiền đề” [28,

Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
đóng góp tích cực và xứng đáng vào sự nghiệp của xã hội. Những cá nhân kém
cõi về nhân cách thì tác động xấu đến xã hội, kìm hãm sự phát triển.
Một xã hội tiến bộ là một xã hội mà mỗi cá nhân phát triển nhân cách của
mình theo hướng tích cực, phát huy vai trò động lực, chủ thể sáng tạo của mỗi cá
nhân. Chủ nghĩa xã hội, vừa khắc phục chủ nghĩa cá nhân cực đoan, vừa tạo ra
những điều kiện mới cho cá nhân phát triển và sáng tạo. Tinh thần đó được Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột,
bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân” [4, tr. 8-9].
Cùng với quá trình phát triển của thực tiễn, con người từng bước tạo ra
thiên nhiên tươi đẹp hơn và hoàn cảnh xã hội có tính người hơn. Trong hoàn cảnh
có tính người, cá nhân từng bước bộc lộ năng lực, bản chất của mình. Vì vậy,
từng bước cá nhân được tự do. Xã hội càng tiến bộ, càng tạo điều kiện cho sự giải
phóng cá nhân với nội dung thực tế và càng thúc đẩy tự do sáng tạo của cá nhân.
Ph.Ăngghen viết: “Mỗi bước tiến của văn minh nhân loại là một bước tiến tới tự
do” [30, tr. 192]. Mức độ giải phóng của xã hội biểu hiện ở sự tự do của từng cá
nhân và sự tự do của mỗi cá nhân là điều kiện cho sự tự do của xã hội. Giải phóng
cá nhân tạo nên động lực khơi nguồn cho công cuộc giải phóng xã hội, còn giải
phóng xã hội là tạo lập môi trường cho sự giải phóng cá nhân. Giải phóng cá nhân
và sự giải phóng xã hội trong điều kiện hiện nay của nước ta đồng nghĩa với việc
thường xuyên chăm lo, nâng cao mức sống và cải thiện môi trường xã hội, từng
bước nhân đạo hóa các điều kiện lao động, ăn, ở, sinh hoạt…khắc phục sự tha hóa
và tăng cường các khả năng hướng thiện; dân chủ hóa các lĩnh vực hoạt động, văn
hóa và thẫm mỹ hóa đời sống tinh thần của con người.
Những hoàn cảnh hợp với tính người sẽ có được trong xã hội bình đẳng,
không có áp bức giai cấp. Đó là xã hội theo dự báo của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
là xã hội Cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Dựa trên cơ
sở triết lý này, chúng ta xây dựng lối sống mới.

nét cơ bản như sau: “Yêu mến quê hương, quyến luyến gia đình, thờ kính tổ tiên,
yêu chuộng công lý, tôn trọng chính nghĩa, ham thích khoa học, yêu thương nòi
giống, tôn trọng lẽ phải, ghét xa hoa, không ham tiền tài, khinh ghét vũ lực,
không sợ gian khổ hy sinh” [35, tr. 42-43]. Xuất phát từ các nghiên cứu của các
học giả Việt Nam có thể thấy lối sống của thanh niên là sự kế thừa, kết tinh từ các
giá trị văn hóa truyền thống dân tộc: yêu nước, đoàn kết, nhân ái, khoan dung, cần
cù, hiếu học, thông minh, sáng tạo, nhẹ nhàng, tế nhị, kín đáo, linh hoạt, dễ thích
nghi…các giá trị văn hóa truyền thống này đã góp phần tạo nên bản sắc dân tộc
Việt Nam. Hội nghị lần thứ năm, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
khẳng định:
“Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm
đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường
dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã - Tổ quốc,
- 17 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý đến tính cần cù, sáng tạo trong
lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong đời sống…” [6, tr.56].
Cơ sở bền vững của lối sống mới được kế thừa vẫn là lao động, bởi lao
động là nguồn sống, nguồn hạnh phúc chân chính, là nghĩa vụ…góp phần hoàn
thiện nhân cách cho thanh niên. Có thể nói, chỉ trong lao động, thanh niên mới
hoàn thiện nhân cách của mình, mới hình thành lối sống lành mạnh, tốt đẹp. Tách
rời lao động, cướp đoạt hoặc sống bám vào lao động của người khác, con người
sẽ bị tha hóa và không còn là con người chân chính nữa. Trong tác phẩm “Biện
chứng của tự nhiên”, Ph.Ăngghen đã từng chỉ rõ: lao động là điều kiện cơ bản
đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý
nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người.
Do đó, tuổi trẻ nói chung cũng như mỗi thanh niên, muốn tự khẳng định
mình, xã hội xem xét và đánh giá thế hệ trẻ cũng như mỗi thanh niên cụ thể, trước
hết phải lấy lao động làm thước đo, làm bảng thang giá trị.

đã dẫn đến hàng loạt những tiêu cực khác, làm tổn thương đến nhân cách và tha
hóa lối sống của mỗi người.
Cùng với sự kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đoàn TNCS HCM quyết tâm đấu tranh và xây
dựng trước hết trong thanh niên một ý thức và phong cách lao động đúng đắn,
một cuộc sống lành mạnh, giản dị và tiết kiệm.
1.4.2 Lối sống mới dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương năm
Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam
Lối sống là sự biểu hiện tập trung của toàn bộ quan hệ vật chất và tinh thần
của con người. Đảng ta xác định, lối sống là một trong những lĩnh vực cốt lõi của
văn hóa. Lối sống mới mà ta hướng đến xây dựng là sự kết tinh của nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và là sự biểu hiện bản chất của chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Có thể nói, từ khi Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương năm khóa VIII
về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” ra đời,
như Chỉ thị ngày 21 tháng 8 năm 1998 của Ban chấp hành Trung ương đã chỉ rõ:
“Có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đất nước ta
trong giai đoạn mới”. Nghị quyết đã khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của
những lĩnh vực tư tưởng, đạo đức và lối sống. Đó là lĩnh vực then chốt của văn
hóa.
Để xây dựng lối sống văn minh, hiện đại, Nghị quyết lần thứ năm Ban
chấp hành Trung ương khóa VIII đã đề ra nhiệm vụ xây dựng con người Việt
Nam, trong đó có thanh niên trong giai đoạn cách mạng mới gồm năm đức tính cơ
bản:
Thứ nhất, có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc
hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thứ hai, có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- 19 -

Vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc để xây
dựng lối sống mới ở nước ta hiện nay là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng và chiến
lược. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X tiếp tục chủ trương “Xây dựng và
hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa” và một trong ba lĩnh vực cần tập trung thực hiện bằng được là “Xây
dựng môi trường, lối sống và đời sống văn hóa của mọi người dân ở cơ sở, phát
- 20 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân” [10, tr.
33-34].
1.4.3 Lối sống mới phù hợp với mục tiêu, phương hướng của Nghị
quyết Đoàn TNCS HCM từ năm 2002 đến nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên giáo dục thanh niên phải có lối sống
mới, có lý tưởng đạo đức. Lối sống mới đó được Người đề cập cả hai phương
diện: đối với mình và đối với xã hội, trong đó có đối với người, đối với nhân dân,
bạn bè, đồng chí và Tổ quốc. Trên cơ sở những lời dạy của Người và định hướng
của Đảng ta, Đại hội Đoàn TNCS HCM toàn quốc lần thứ IX khẳng định:
“Trong giai đoạn mới, nhiệm vụ quan trọng của Đoàn là xây dựng lớp
thanh niên giàu lòng yêu nước, biết đặt lợi ích của mình trong lợi ích thống nhất
của quốc gia, dân tộc; có lý tưởng cách mạng và bản lĩnh chính trị vững vàng; có
tri thức, chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng lao động giỏi; có văn hóa và lối sống
tình nghĩa; có sức khỏe thể chất và tinh thần lành mạnh; giàu nhiệt huyết sáng tạo
và tinh thần tình nguyện” [12, tr. 19]. Người thanh niên của thời kỳ mới vừa biết
giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa biết làm giàu
văn hóa dân tộc bằng những giá trị, những tinh hoa văn hóa nhân loại, là hiện
thân tiêu biểu của giá trị văn hóa Việt Nam. Nghị quyết Đoàn TNCS HCM toàn
quốc lần thứ IX đã xác định mục tiêu xây dựng lối sống mới cho thanh niên hiện
nay: “Xây dựng lớp thanh niên giàu lòng yêu nước, có lối sống đẹp, có lý tưởng
cách mạng, có bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam” [12, tr. 19].
Tiếp tục quán triệt Nghị quyết Trung ương Đoàn, Đại hội Đoàn TNCS

- Thực trạng xây dựng lối sống mới của Đoàn TNCS HCM trước năm
2002
Việc xây dựng lối sống mới của Đoàn TNCS HCM tỉnh An Giang sớm
được chú trọng. Những năm trước 2002, phong trào đạt được những mặt tích cực
nhưng đồng thời cũng tồn tại những yếu kém:
Một là, nhận thức và thái độ chính trị của thanh niên ngày nay có tiến bộ
theo chiều hướng tích cực. Số đông thanh niên ngày càng quan tâm về những vấn
đề của đất nước, quốc tế, ủng hộ công cuộc đổi mới, tự nguyện tham gia các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội thông qua các phong trào do Đoàn
TNCS HCM khởi xướng, tích cực tham gia công tác xã hội, sẵn sàng hy sinh lợi
ích cá nhân vì lợi ích chung. Số Đoàn viên đứng vào hàng ngũ của Đảng Cộng
sản Việt Nam, thanh niên vào Hội Liên hiệp thanh niên, vào Đoàn TNCS HCM
hàng năm điều tăng. Bên cạnh đó cũng còn một bộ phận thanh niên thờ ơ với
chính trị, thiếu ý thức trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội, nhận thức
kém, dễ bị kích động vào những hoạt động không lành mạnh, vi phạm pháp luật.
- 22 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
Hai là, nhiều mâu thuẫn liên tục diễn ra trong quá trình rèn luyện lối sống
mới của thanh niên đòi hỏi họ phải có đủ bản lĩnh để giải quyết như: mâu thuẫn
giữa đầu tư cho học vấn, nghề nghiệp với hiệu quả của việc đầu tư đó trong thực
tế; giữa quá trình đấu tranh tự giáo dục, tự khẳng định mình của tuổi trẻ trước lối
sống tích cực và lối sống tiêu cực; giữa môi trường sống lành mạnh với không
lành mạnh; giữa các giá trị đạo đức truyền thống với sự sút giảm đạo đức của một
bộ phận không nhỏ những con người trong xã hội thậm chí có khi ngay trong gia
đình mình…. Trong thực tế, quá trình giải quyết các mâu thuẫn này diễn ra theo
chiều hướng tích cực. Đa số thanh niên vẫn nhận thức rõ giá trị của việc học và đã
trở thành nhu cầu của họ trong lập nghiệp. Các cấp ủy Đảng, Nhà nước, các
ngành, các tổ chức xã hội cũng đã có những đóng góp quan trọng cho việc chăm
lo, phát triển những tài năng trẻ của Tỉnh. Tuy nhiên, một bộ phận thanh niên
chưa đủ bản lĩnh giải quyết mâu thuẫn, cho nên còn nhiều hiện tượng như: thiếu

mới cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay nên được nâng cao cho xứng đáng
với tầm quan trọng của nó; cần được tách ra thành công tác riêng biệt. Bởi vì lối
sống của thanh niên đang có những biến đổi lớn, nhanh và là vấn đề được cả xã
hội quan tâm. Để làm tốt công tác này, phải nghiên cứu một cách toàn diện cả lý
luận và thực tiễn để có những biện pháp phù hợp. Trong đó, yêu cầu định hướng
nội dung cho việc xây dựng lối sống mới của Đoàn TNCS HCM An Giang là một
công tác quan trọng. Sự nỗ lực này được Đoàn TNCS HCM tập trung trí tuệ chỉ
ra cho giai đoạn 2002 đến nay.
Những năm đầu của thế kỷ XXI mở ra những cơ hội mới – thách thức mới.
Nền kinh tế An Giang tăng trưởng khá toàn diện, văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ,
đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Đảng bộ các cấp thường xuyên
quan tâm lãnh đạo, giáo dục, chăm sóc, bồi dưỡng thế hệ trẻ phát triển toàn diện,
đặc biệt là chăm lo nhu cầu học tập, việc làm, thu nhập ổn định, giải trí của thanh
niên. Tuy nhiên, do cơ cấu kinh tế nông nghiệp An Giang phát triển chậm, tổ
chức phát triển thị trường còn nhiều hạn chế, nhiều vấn đề xã hội bức xúc như:
mặt bằng dân trí thấp, tệ nạn xã hội, ma túy, mại dâm tăng, giải quyết việc làm
chưa tương xứng với sự gia tăng lao động…
Theo số liệu thống kê đến năm 2002, dân số An Giang là 2.128.830 người.
Trong đó, thanh niên hiện có khoảng 923.153 người, với hơn 53.588 đoàn viên.
Theo kết quả điều tra xã hội học do Ban thường vụ Tỉnh Đoàn tiến hành cho thấy:
Thanh niên trong tỉnh năng động, sáng tạo luôn ủng hộ sự nghiệp đổi mới của
Đảng, ham hiểu biết, cố gắng học tập, vượt khó trong lao động, sản xuất, kinh
doanh…vì lợi ích của gia đình và xã hội. Sẵn sàng tình nguyện thực hiện nhiệm
vụ khi Đảng bộ và nhân dân giao phó với tinh thần nhiệt huyết và có trách nhiệm.
Trong giai đoạn mới, đứng trước những thuận lợi và khó khăn trên có tác
động to lớn đến nhận thức và hành động của thanh niên. Đại hội Đoàn TNCS
HCM đã chỉ ra những thuận lợi và khó khăn trong quá trình xây dựng lối sống
mới, đó là:
- Những thuận lợi:
Nghị quyết của Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ IX đã tạo cơ hội cho

Đoàn TNCS HCM tỉnh An Giang cùng với các cấp bộ Đoàn quyết tâm
thực hiện công tác xây dựng lối sống mới trong thanh niên với nhiều chương trình
hành động. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đoàn TNCS HCM tỉnh An Giang lần
thứ VII, công tác xây dựng lối sống mới có nhiều chuyển biến, góp phần nâng cao
chất lượng chính trị, củng cố niềm tin, bồi dưỡng lý tưởng, đạo đức cách mạng,
lối sống văn hóa và ý thức công dân cho thanh niên.
- 25 -

Trích đoạn Giải pháp thực hiện việc xây dựng lối sống mới của Đoàn TNCS HCM tỉnh An Giang PHẦN KẾT LUẬN
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status