BÁO CÁO THỰC TẬP-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU-ĐẠI CƯƠNG VỀ CÁC CHƯƠNG TRONG SÁCH - Pdf 27

LỜI TỰA
__________________________________________ MỤC ĐÍCH Cuốn sách này đưa ra một khuôn khổ, một qui trình và những cách tiếp cận về soạn thảo đối
với việc thiết kế nghiên cứu định tính, định lượng, và theo các phương pháp hỗn hợp trong
các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Sự quan tâm đến và việc sử dụng nghiên cứu định
tính gia tăng, sự xuất hiện của những cách tiếp cận nghiên cứu theo các phương pháp hỗn hợp
và sự sử dụng tiếp tục các hình thức truyền thống của các thiết kế nghiên cứu định lượng làm
cho việc so sánh độc đáo về ba cách tiếp cận điều tra trong cuốn sách này trở thành rất cần
thiết. Việc so sánh này bắt đầu bằng sự xem xét sơ bộ về những lời khẳng định tri thức cho cả
ba cách tiếp cận điều tra, sự xem xét lại tài liệu trong quá khứ, và những suy ngẫm về tầm
quan trọng của việc viết lách và những vấn đề đạo lý trong việc điều tra nghiên cứu học thuật.
Kế đến, cuốn sách này đề cập đến những thành phần cốt yếu của qui trình nghiên cứu: viết
phần giới thiệu đề án nghiên cứu; phát biểu mục đích của công trình nghiên cứu; xác định các
câu hỏi nghiên cứu và các giả thuyết; sử dụng lý thuyết; định nghĩa, ấn định giới hạn, và phát
biểu ý nghĩa của công trình nghiên cứu; và đưa ra các phương pháp và các thủ tục thu thập dữ
liệu và phân tích dữ liệu. Tại mỗi bước trong qui trình nghiên cứu này, người đọc được giảng
giải chi tiết về các cách tiếp cận định tính, định lượng, và theo các phương pháp hỗn hợp.

Minh họa ở trang bìa của cuốn sách này thể hiện một biểu tượng về vũ trụ, vạn vật của đạo
Phật hay đạo Hin-du (Ấn độ giáo) gọi là mandala (hình tròn, bên trong có nhiều hình vẽ dạng
hình học như hình ở trang bìa). Việc tạo ra một hình tròn biểu tượng về vũ trụ này, rất giống
với việc tạo ra một thiết kế nghiên cứu, đòi hỏi phải nhìn vào “bức tranh rộng lớn” cũng như
phải chú ý hết sức kỹ đến chi tiết―một hình tròn biểu tượng vũ trụ này nếu làm bằng cát có
thể mất nhiều ngày bởi vì phải sắp xếp chính xác vị trí của các mảnh nhỏ, mà đôi khi là những
hạt cát đơn lẻ. Hình tròn biểu tượng vũ trụ này cũng cho thấy sự liên hệ chặt chẽ giữa các bộ
phận của tổng thể, một lần nữa thể hiện thiết kế nghiên cứu, trong đó mỗi thành phần định

văn. Những minh họa này phản ánh các vấn đề về công lý xã hội và những thí dụ về các công
trình nghiên cứu với các cá nhân bị đẩy ra ngoài lề trong xã hội của chúng ta, cũng như những
mẫu và những tổng thể truyền thống được nghiên cứu bởi các nhà nghiên cứu xã hội. Sự bao
quát cũng mở rộng sang chủ nghĩa đa nguyên về phương pháp luận trong nghiên cứu ngày
nay, và thảo luận này kết hợp vào các ý tưởng về triết học thay thế khác nhau, các phương
thức điều tra khác nhau, và nhiều thủ tục.

Cuốn sách này không phải là một cuốn sách giáo khoa chi tiết về phương pháp; thay vào đó,
tôi nêu bật những đặc điểm thiết yếu của thiết kế nghiên cứu. Phạm vi trình bày về các chiến
lược điều tra trong nghiên cứu chỉ giới hạn trong các hình thức được sử dụng thường xuyên
nhất: các cuộc thí nghiệm/thực nghiệm và các cuộc điều tra/khảo sát trong nghiên cứu định
lượng; các nghiên cứu theo hiện tượng học, dân tộc học, lý thuyết có cơ sở, nghiên cứu tình
huống, và nghiên cứu tường thuật trong nghiên cứu định tính; và thiết kế có tính đồng thời,
thiết kế theo trình tự, và thiết kế có tính biến đổi trong nghiên cứu theo các phương pháp hỗn
hợp. Mặc dù các sinh viên chuẩn bị đề án làm luận án tiến sĩ sẽ tìm thấy cuốn sách này hữu
ích cho mình, nhưng những đề tài có liên quan đến chiến thuật trình bày và thương lượng với
các hội đồng phụ trách đào tạo trên đại học về một công trình nghiên cứu được giải quyết kỹ
lưỡng trong các cuốn sách giáo khoa khác.

Phù hợp với những qui ước đã được chấp nhận về việc viết tài liệu nghiên cứu học thuật, tôi
đã cố gắng loại bỏ bất kỳ từ ngữ hay thí dụ nào chuyển tải định hướng phân biệt giới tính hay
sắc tộc. Các thí dụ được chọn lựa để cung cấp một loạt đầy đủ các định hướng giới tính và
văn hóa. Tôi cũng không thiên vị trong việc sử dụng các thảo luận định tính và định lượng
của mình―người đọc sẽ tìm thấy rằng đôi khi tôi bắt đầu bằng các thí dụ định tính và đôi khi
tôi bắt đầu bằng các thí dụ định lượng. Người đọc cần lưu ý rằng trong các thí dụ dài hơn,
được trích dẫn từ các nguồn khác và trình bày trong cuốn sách này, có tham khảo đến nhiều
tác phẩm hay các bài báo khác. Ở đây, tôi sẽ chỉ dẫn chứng tác phẩm mà tôi sử dụng làm thí
dụ minh họa là tài liệu tham khảo, chứ không nêu ra toàn bộ danh sách các tài liệu tham khảo
được bao hàm trong một thí dụ cụ thể.


và đáng kể hơn. Trong chương thứ ba, tôi dành ra trọn một phần để trình bày các vấn đề
về đạo lý có thể nảy sinh trong các thiết kế nghiên cứu định lượng, định tính, và theo các
phương pháp hỗn hợp. Các vấn đề về đạo lý phải được dự kiến một cách thỏa đáng vào
lúc bắt đầu dự án nghiên cứu.

• Nhiều sáng kiến mới đã xảy ra trong nghiên cứu định tính kể từ khi tôi là tác giả của ấn bản
đầu tiên của cuốn sách này. Chương về các thủ tục định tính, Chương 10, phản ánh nhiều tư
duy mới về đề tài này, bao gồm những phát triển trong các cách tiếp cận nghiên cứu có tính
tuyên truyền vận động, khuyến khích sự tham gia của mọi người và có tính giải phóng mà
hiện đã trở thành quan trọng đối với hầu hết điều tra định tính.

• Tương tự, nghiên cứu theo các phương pháp hỗn hợp đã mở rộng và cho thấy có hiệu quả với
tư cách là một cách tiếp cận điều tra kể từ khi cuốn sách này của tôi được xuất bản lần đầu.
Chương có nhan đề “Nghiên cứu Kết hợp Định tính và Định lượng” trong cuốn sách xuất bản
lần thứ nhất được gọi một cách thích hợp là “Các Thủ tục trong Nghiên cứu theo các Phương
pháp Hỗn hợp” trong cuốn sách xuất bản lần thứ hai này. Tôi đã viết lại toàn bộ chương này
để phản ánh tư duy đã nổi lên trong suốt thập niên vừa qua.

• Trong mỗi chương, tôi đều thêm vào những tài liệu tham khảo cập nhật trong phạm vi
chương đó cũng như những tài liệu tham khảo mới cho phần “bài đọc thêm” sao cho
người đọc có thể kết hợp một số bài đọc cổ điển với các tác phẩm mới.

• Trong việc thảo luận về các câu hỏi nghiên cứu và các giả thuyết, tôi đã đưa ra nhiều thí dụ
hơn và đã làm rõ những điều chỉ dẫn về việc viết những dạng câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết
khác nhau. Những minh họa chuyên biệt bổ sung đã được thêm vào đối với các cách tiếp cận
nghiên cứu định tính, định lượng, và theo các phương pháp hỗn hợp. ĐẠI CƯƠNG VỀ CÁC CHƯƠNG TRONG SÁCH


đạo lý có thể nảy sinh trong suốt nghiên cứu. Chương này đưa ra các đề cương cho các đề án
nghiên cứu định lượng, định tính, và theo các phương pháp hỗn hợp. Chương này cũng xét
đến các vấn đề đạo lý thường nảy sinh trong suốt các công trình nghiên cứu. Phần II: Việc Thiết kế Nghiên cứu

Phần này của cuốn sách mô tả các bước trong qui trình nghiên cứu. Phần này bao gồm các
chương còn lại, từ Chương 4 đến hết Chương 11.

Chương 4: Phần Giới thiệu

Điều quan trọng là giới thiệu một cách thích hợp công trình nghiên cứu. Điều này đòi hỏi
phải xác định vấn đề nghiên cứu (vấn đề khó khăn hay vấn đề), trình bày vấn đề này trong
phạm vi tài liệu hiện hữu, chỉ ra những điểm khiếm khuyết trong tài liệu, và nhắm công trình
nghiên cứu vào một nhóm khán giả. Chương này cung cấp một phương pháp có hệ thống để
thiết kế một phần giới thiệu uyên bác đối với một đề án nghiên cứu hay công trình nghiên
cứu.

Chương 5: Lời Phát biểu Mục đích Nghiên cứu

Ở phần đầu của các đề án nghiên cứu, các tác giả đề cập đến mục đích chủ yếu hay chủ đích của
công trình nghiên cứu. Đoạn này là lời phát biểu quan trọng nhất trong toàn bộ đề án nghiên
cứu. Trong chương này, người đọc sẽ học được cách thức viết lời phát biểu mục đích cho các
công trình nghiên cứu định lượng, định tính, và theo các phương pháp hỗn hợp và sẽ biết được
một “bản gốc” (để điền vào) thật hữu ích trong qui trình viết đề án.

Chương 6: Các Câu hỏi Nghiên cứu và các Giả thuyết

Các câu hỏi và các giả thuyết được đề cập bởi nhà nghiên cứu dùng để thu hẹp và đưa vào

được sử dụng, và hướng ý nghĩa của nghiên cứu được đề xuất nhắm vào những nhóm khán
giả khác nhau. Chương này giúp người đọc thiết kế mỗi phần trong các phần trình bày này
cho một đề án hay kế hoạch nghiên cứu.

Chương 9: Các Phương pháp Định lượng

Các phương pháp định lượng bao gồm các qui trình thu thập dữ liệu, phân tích dữ liệu, giải
thích (diễn giải), và viết ra các kết quả của một công trình nghiên cứu. Các phương pháp
chuyên biệt hiện hữu trong cả nghiên cứu dựa trên cuộc điều tra/khảo sát lẫn nghiên cứu dựa
trên cuộc thí nghiệm. Các phương pháp chuyên biệt này liên quan đến việc xác định mẫu và
tổng thể, việc nêu rõ chiến lược điều tra, việc thu thập và phân tích dữ liệu, việc trình bày các
kết quả, đưa ra lời giải thích và viết nghiên cứu theo cách thức phù hợp với một công trình
nghiên cứu dựa trên cuộc điều tra/khảo sát hay cuộc thí nghiệm. Trong chương này, người
đọc sẽ học được các thủ tục chuyên biệt để thiết kế các phương pháp điều tra/khảo sát hay thí
nghiệm.

Chương 10: Các Thủ tục Định tính

Những cách tiếp cận định tính đối với việc thu thập dữ liệu, phân tích dữ liệu, và viết báo cáo
nghiên cứu khác với các cách tiếp cận định lượng, truyền thống. Việc sử dụng phương pháp
lấy mẫu có mục đích, việc thu thập dữ liệu mở, việc phân tích văn bản hay hình ảnh, việc
trình bày thông tin bằng hình và bảng, và việc giải thích có tính cá nhân các kết quả tìm thấy,
tất cả đều thể hiện đặc điểm của các thủ tục định tính. Chương này đưa ra các bước trong việc
thiết kế các thủ tục định tính, cũng như minh họa các thủ tục này bằng các thí dụ trích từ các
nghiên cứu theo hiện tượng học, lý thuyết có cơ sở, dân tộc học, nghiên cứu tình huống, và
nghiên cứu tường thuật.

Chương 11: Các Thủ tục Nghiên cứu theo các Phương pháp Hỗn hợp.

Các thủ tục nghiên cứu theo các phương pháp hỗn hợp sử dụng các khía cạnh của cả các

LỜI CẢM ƠN
_______________________

Cuốn sách này lẽ ra đã không thể được viết ra nếu không có sự khuyến khích và những
ý tưởng của hàng trăm sinh viên trong khóa học “Xây dựng Đề án” trình độ tiến sĩ mà
tôi đã giảng dạy tại Đại học Nebraska-Lincoln trong nhiều năm. Các cựu sinh viên và
những người biên tập đặc biệt đã đóng góp rất quan trọng vào việc phát triển cuốn
sách này: Tiến sĩ Sharon Hudson, Tiến sĩ Leon Cantrell, người quá cố Nette Nelson,
Tiến sĩ De Tonack, Tiến sĩ Ray Ostrander, và Diane Greenlee. Kể từ khi xuất bản
cuốn sách này lần đầu, tôi cũng đã mang ơn các sinh viên trong các khóa học về các
phương pháp nghiên cứu nhập môn do tôi giảng dạy và mang ơn các cá nhân đã tham
gia trong các cuộc hội thảo về các phương pháp hỗn hợp của tôi. Các khóa học này đã
là các “phòng thí nghiệm” của tôi cho việc tìm hiểu các ý tưởng, đưa vào những ý
tưởng mới, và chia sẻ những kinh nghiệm của tôi với tư cách tôi là một tác giả và một
nhà nghiên cứu. Ngoài ra, tôi rất biết ơn về những đề nghị sâu sắc do những nhà phê
bình sau đây đưa ra: Susan E. Dutch, Đại học Tiểu bang Westfield; Hollis Glaser, Đại
học Nebraska; Steve Guerriero, Trường Antioch New England; Gladys Hildreth, Đại
học Kentucky; Nancy Leech, Đại học Tiểu bang Colorado; Martha NonteroSieburth,
Đại học Massachusetts, Boston; David Morgan, Đại học Tiểu bang Colorado; và
Kathleen Young, Đại học New Mexico.

Ngoài ra, nếu không có sự hỗ trợ và khuyến khích của các bằng hữu của tôi tại
Nhà Xuất bản Sage thì lẽ ra tôi đã không thể xuất bản cuốn sách này. Nhà Xuất bản
Sage đã và hiện là một nhà xuất bản hạng nhất. Tôi đặc biệt chịu ơn nhiều đối với
người biên tập và cố vấn, C. Deborah Laughton. Trong suốt một thập niên làm việc
với Nhà Xuất bản Sage, C. Deborah luôn luôn mang đến cho tôi sự hướng dẫn có suy
nghĩ chín chắn, cặp mắt chuyên nghiệp và thành thạo về thiết kế, và sự khuyến khích
đối với tôi với tư cách tôi là một tác giả và một nhà nghiên cứu.
quan đến việc chọn lựa một cách tiếp cận hay một khuôn khổ cho toàn bộ
thiết kế nghiên cứu (nghĩa là định lượng, định tính, hay theo các phương
pháp hỗn hợp), việc xem xét lại tài liệu trong quá khứ để hiểu biết công
trình nghiên cứu được đề xuất bổ sung hay mở rộng nghiên cứu đã có
trước đó như thế nào, và sử dụng―ngay từ ban đầu―cách viết tốt và các
thông lệ thực hành về đạo lý. John W. Creswell Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh

8

PHẦN II
______________________________________

Việc Thiết kế Nghiên cứu ■ Chương 4
Phần Giới thiệu Đề án Nghiên cứu (An Introduction)
■ Chương 5
Phát biểu về Mục đích Nghiên cứu (The Purpose Statement)
■ Chương 6
Các Câu hỏi Nghiên cứu và các Giả thuyết (Research


John W. Creswell là Giáo sư về Tâm lý học Giáo dục trong chương trình trên đại học
(thạc sĩ và tiến sĩ) về các Phương pháp Định tính và Định lượng trong Giáo dục
(QQME) tại Đại học Nebraska-Lincoln. Ông chuyên về các phương pháp nghiên cứu,
điều tra định tính, và các thiết kế theo các phương pháp hỗn hợp, cũng như các ứng
dụng về phương pháp học trong giáo dục, các khoa học xã hội, và y tế gia đình. John
W. Creswell là tác giả của bảy cuốn sách và nhiều chương trong các cuốn sách khác
cũng như nhiều bài viết trên các tạp chí hay tập san. Gần đây, ông đã hoàn thành một
cuốn sách giáo khoa giới thiệu về các phương pháp nghiên cứu cho Nhà Xuất bản
Merrill/Pearson Education. Ông hiện đang viết các bài báo và các chương sách về
nghiên cứu theo các phương pháp hỗn hợp và đang hoàn chỉnh một cuốn sách về
nghiên cứu định tính ứng dụng cho Nhà Xuất bản Sage Publications. Ông sống ở
Lincoln, Nebraska cùng với vợ. Hai con đã trưởng thành của họ đang theo đuổi sự
nghiệp trong ngành tâm lý học và khoa học về thần kinh. John W. Creswell đang học
làm thơ, ông tích cực tham gia tập aerobics nước, và làm việc với tư cách là một nhà tư
vấn quốc gia và nhà phương pháp học nghiên cứu cho nhiều dự án trong các khoa học
xã hội và nhân văn.

John W. Creswell Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh

10
CHƯƠNG MỘT
________________________________________


thảo luận này sẽ không phải là một bài thảo luận triết học nghiêm túc về bản chất của tri thức,
nhưng bài thảo luận này sẽ cung cấp kiến thức căn bản thực tiễn về một số tư tưởng triết học
đằng sau nghiên cứu.

BA THÀNH PHẦN CỦA ĐIỀU TRA

Trong ấn bản đầu tiên của cuốn sách này, tôi đã sử dụng hai cách tiếp cận (approaches) – đó
là định tính và định lượng. Tôi đã mô tả mỗi cách tiếp cận này theo những giả định triết học
khác nhau về bản chất của hiện thực, khoa học luận, các giá trị, tu từ học của nghiên cứu, và
phương pháp luận (Creswell, 1994). Nhiều phát triển trong thập niên vừa qua đã dẫn đến việc
xem xét lại quan điểm nói trên.

• Nghiên cứu theo các phương pháp hỗn hợp (mixed methods research) đã được hầu hết
mọi người chấp nhận và đánh giá cao. Việc chỉ đưa vào các cách tiếp cận nghiên cứu
định lượng và định tính sẽ không bao gồm hết các cách tiếp cận chính ngày nay đang
được sử dụng trong các khoa học xã hội và nhân văn.
John W. Creswell Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh

11
• Các giả định triết học khác ngoài những giả định đã được đưa ra năm 1994 đã được
thảo luận rộng rãi trong tài liệu liên quan. Nổi bật nhất, các quan điểm có tính phê phán,
các quan điểm về tuyên truyền vận động/khuyến khích sự tham gia của mọi người
(advocacy/participatory perspecitves), và những tư tưởng thực dụng (thí dụ, xem
Lincoln & Guba, 2000; Tashakkori & Teddlie, 1998) đang được thảo luận rộng rãi.
Mặc dù những tư tưởng triết học vẫn còn gần như “ẩn giấu” trong nghiên cứu (Slife &
Williams, 1995), nhưng những tư tưởng triết học này vẫn ảnh hưởng đến cách thực hành
nghiên cứu và cần được xác định .
• Tình hình ngày này là cách thực hành nghiên cứu nằm đâu đó trên chuỗi biến thiên
giữa định lượng và định tính chứ không phải là định lượng so với định tính (thí dụ, tài
liệu Newman & Benz, 1998). Điều tốt nhất chúng ta có thể nói là các nghiên cứu về

qui trìn
Với những ý tưởng này trong đầu, tôi hình dung khái niệm về (khái niệm hóa) mô hình
1. Những lời khẳng định tri thức nào nhà nghiên cứu đưa ra (bao gồm quan điểm về lý
2. ược điều tra nào sẽ ảnh hưởng đến các thủ tục?
ược sử dụng?

Các Câu hỏi
Quan điểm (lăng kính)
về lý thuyết
Thu thập dữ liệu
Phân tích dữ liệu
Viết bài
Chứng nhận giá trị

Cách tiếp cận Nghiên cứu
Các Qui trình Thiết kế
Nghiên cứu
Các Thành phần của Điều tra

Các Lời Khẳng định Tri thức
Thay thế khác nhau (Knowledge Claims)

Được hình thành khái niệm
bởi nhà nghiên cứu
Các phương pháp
(methods)
Định tính
Định lượng
Các Phương pháp Hỗn hợp
Chuyển thành

các phương pháp chuyên biệt. Bằng cách sử dụng ba thành phần này, nhà nghiên cứu lúc đó
có thể xác định cách tiếp cận điều tra theo định lượng hoặc định tính hoặc theo các phương
pháp hỗn hợp.

Bảng 1.1 Các Quan điểm về Khẳng định Tri thức Thay thế khác nhau
Chủ nghĩa Hậu Thực chứng Chủ nghĩa Cấu trúc

Sự tất định Sự hiểu biết
Khuynh hướng giải thích những hiện
tượng hoặc cấu trúc phức tạp bằng
những nguyên lý đơn giản.
Nhiều ý nghĩa do người tham gia hình
thành nên.
Quan sát và Đo lường dựa vào Thực
nghiệm
Sự cấu trúc có tính xã hội và lịch sử
Xác minh lý thuyết Sự tạo ra lý thuyết
Tuyên truyền Vận động/Khuyến khích
sự Tham gia của Mọi người
Chủ nghĩa Thực dụng
Mang tính Chính trị Kết quả của hành động
Hướng về vấn đề trao quyền Tập trung vào vấn đề
Mang tính cộng tác Có tính đa nguyên
Hướng về sự thay đổi Hướng về thực tiễn thế giới thực. Những lời khẳng định Tri thức Thay thế Khác nhau

Phát biểu lời khẳng định tri thức có nghĩa là các nhà nghiên cứu khởi đầu một đề án bằng các
giả định nhất định về cách thức họ sẽ học hỏi và những điều gì họ sẽ học hỏi trong suốt cuộc

Chủ nghĩa hậu thực chứng thể hiện triết lý theo thuyết tất định (thuyết quyết định)
trong đó nguyên nhân có lẽ quyết định kết quả hay kết cục. Như thế, những vấn đề được
nghiên cứu bởi những người theo chủ nghĩa hậu thực chứng phản ánh yêu cầu xem xét những
nguyên nhân ảnh hưởng đến các kết cục, như những vấn đề được xem xét trong các thí
nghiệm. Chủ nghĩa hậu thực chứng cũng có khuynh hướng giải thích các hiện tượng phức tạp
bằng những nguyên lý tương đối đơn giản (reductionistic) theo nghĩa là có chủ ý rút gọn các ý
tưởng thành một tập ý tưởng rời rạt và ngắn gọn để kiểm định, như các biến số cấu thành các
giả thuyết và các câu hỏi nghiên cứu. Tri thức phát triển thông qua lăng kính của người theo
chủ nghĩa hậu thực chứng dựa vào sự quan sát và sự đo lường cẩn thận hiện thực khách quan
tồn tại “bên ngoài ở đó” trên thế giới. Như thế, việc xây dựng những thước đo bằng số về
những quan sát và việc nghiên cứu hành vi của cá nhân trở thành tối quan trọng đối với một
người theo chủ nghĩa hậu thực chứng. Cuối cùng, có những quy luật hay lý thuyết chi phối thế
giới, và những quy luật hay lý thuyết này cần được kiểm định hay xác minh và cải tiến sao cho
chúng ta có thể hiểu biết về thế giới. Như thế, trong phương pháp khoa học – cách tiếp cận
nghiên cứu được những người theo chủ nghĩa hậu thực chứng chấp nhận – một cá nhân bắt đầu
với một lý thuyết, thu thập dữ liệu hoặc ủng hộ hoặc bác bỏ lý thuyết này, và kế đó thực hiện
những hiệu chỉnh cần thiết trước khi tiến hành các kiểm định bổ sung.

Khi đọc tài liệu của Phillips và Burbules (2000), người ta có thể hiểu được những giả
định chủ yếu của quan điểm này, như những giả định sau đây:

1. Tri thức là dựa vào sự phỏng đoán (và đối ngược với việc theo nguyên tắc cơ bản) –
chân lý tuyệt đối không bao giờ có thể tìm thấy được. Như thế, bằng chứng được thiết
lập trong nghiên cứu luôn luôn không hoàn hảo và có khả năng sai lầm. Chính vì lý
do này mà các nhà nghiên cứu không chứng minh các giả thuyết và thay vì thế họ chỉ
ra tình trạng không đạt yêu cầu của giả thuyết để bác bỏ.

2. Nghiên cứu là quá trình đưa ra những lời khẳng định và sau đó cải tiến hay từ bỏ một
số trong các lời khẳng định này để đưa ra những lời khẳng định khác được biện minh
mạnh mẽ hơn. Thí dụ, hầu hết nghiên cứu theo định lượng khởi đầu bằng việc kiểm

được xác định trong các công trình nghiên cứu này cho rằng các cá nhân cố công tìm hiểu về
thế giới trong đó họ sống và làm việc. Họ xây dựng những ý nghĩa (meanings) có tính chủ
quan về các kinh nghiệm của họ – những ý nghĩa hướng về những đối tượng hay những thứ
nhất định. Những ý nghĩa này khác nhau và có nhiều, làm cho nhà nghiên cứu phải tìm kiếm
tính phức tạp của các quan điểm chứ không phải thu hẹp các ý nghĩa vào một ít loại hay một ít
tư tưởng. Thế thì mục tiêu của nghiên cứu là dựa càng nhiều càng tốt vào các quan điểm của
những người tham gia về tình huống đang được nghiên cứu. Các câu hỏi trở nên rộng và tổng
quát sao cho những người tham gia có thể xây dựng ý nghĩa về một tình huống, một ý nghĩa
thường đã được tôi luyện trong các cuộc thảo luận hay những sự tương tác với những người
khác. Việc đặt câu hỏi càng để mở, thì càng tốt, vì nhà nghiên cứu lắng nghe cẩn thận những
điều người ta nói hay làm, trong môi trường đời sống của họ. Thường thì những ý nghĩa có
tính chủ quan này được thương lượng về mặt xã hội và lịch sử. Nói cách khác, những ý nghĩa
này không đơn thuần được khắc sâu vào các cá nhân, mà được hình thành thông qua sự tương
tác với những người khác (do đó ta có chủ nghĩa cấu trúc xã hội) và thông qua các chuẩn mực
trong lịch sử và văn hóa có hiệu lực trong đời sống của các cá nhân. Như thế, các nhà nghiên
cứu theo chủ nghĩa cấu trúc thường xử lý “những qui trình” tương tác giữa các cá nhân. Họ
cũng tập trung vào những bối cảnh chuyên biệt trong đó người ta sống và làm việc để hiểu
được các môi trường lịch sử và văn hóa của những người tham gia. Các nhà nghiên cứu công
nhận rằng quá trình đào tạo và nghề nghiệp của họ ảnh hưởng nhiều đến cách giải thích của
họ, và họ “đặt bản thân của mình” vào cuộc nghiên cứu để thông báo cho người khác biết lời
giải thích của họ bắt nguồn từ những kinh nghiệm về văn hóa và lịch sử cá nhân của họ ra sao.
Như thế, chủ ý của nhà nghiên cứu là hiểu ra được (hay giải thích) những ý nghĩa mà những
người khác có về thế giới. Thay vì khởi đầu bằng một lý thuyết (như trong chủ nghĩa hậu
thực chứng), các nhà điều tra tạo ra hay xây dựng theo phép qui nạp một lý thuyết hay mô
thức về ý nghĩa.

Thí dụ, trong việc thảo luận về chủ nghĩa cấu trúc, Crotty (1998) đã xác định được vài
giả định:

1. Những ý nghĩa được xây dựng bởi con người khi họ nỗ lực hiểu biết và đối xử với thế

các vấn đề về công bằng xã hội. Về mặt lịch sử, một số tác giả theo cách tiếp cận tuyên
truyền vận động/khuyến khích sự tham gia của mọi người (hay có tính giải phóng con người)
đã sử dụng các công trình nghiên cứu hay tác phẩm của Marx, Adorno, Marcuse, Habermas,
và Freire (Neuman, 2000). Gần đây hơn, để biết quan điểm này chúng ta có thể đọc các tác
phẩm của Fay (1987), Heron và Reason (1997), và Kemmis và Wilkinson (1998). Nói chung,
các nhà nghiên cứu điều tra này cảm thấy rằng lập trường của những người theo chủ nghĩa
cấu trúc đã không đạt được thành công hoàn toàn trong việc ủng hộ một chương trình hành
động (action agenda) để giúp những dân tộc bị đẩy ra ngoài lề. Những nhà nghiên cứu này tin
rằng việc điều tra cần phải được liên kết chặt chẽ với hoạt động chính trị và chương trình nghị
sự về chính trị. Như thế, nghiên cứu cần phải chứa đựng một chương trình hành động nhằm
cải cách mà có thể thay đổi cuộc sống của những người tham gia, thay đổi các định chế hay
thể chế mà trong đó các cá nhân làm việc hoặc sống, và thay đổi cuộc sống của nhà nghiên
cứu. Hơn nữa, những vấn đề cụ thể cần được giải quyết nói lên những vấn đề xã hội quan
trọng tồn tại vào một thời kỳ nào đó, những vấn đề như sự trao quyền, tình trạng bất bình
đẳng, sự áp bức, sự thống trị, sự đàn áp, sự làm cho bị xa lánh hay ghét bỏ. Nhà nghiên cứu
theo cách tiếp cận tuyên truyền vận động thường trước tiên sử dụng một trong những vấn đề
nói trên làm điểm trọng tâm của nghiên cứu. Nghiên cứu này cũng giả định rằng nhà điều tra
sẽ tiến hành trên tinh thần cộng tác sao cho không đẩy những người tham gia ra ngoài lề thêm
nữa do hậu quả của cuộc điều tra này. Theo nghĩa này, những người tham gia có thể giúp
thiết kế các câu hỏi, thu thập dữ liệu, phân tích thông tin, hay nhận được phần thưởng cho
việc tham gia vào cuộc nghiên cứu. “Tiếng nói” của những người tham gia trở thành một
tiếng nói thống nhất nhằm mục đích cải cách và thay đổi. Sự tuyên truyền vận động này có
thể có nghĩa là mang lại một tiếng nói (quyền phát biểu ý kiến) cho những người tham gia
này, nâng cao ý thức của họ, hay đưa ra một chương trình nghị sự về sự thay đổi để cải thiện
cuộc sống của những người tham gia.

Trong phạm vi những lời khẳng định tri thức này là lập trường của các nhóm và các cá
nhân trong xã hội có thể bị đẩy ra ngoài lề hay bị tước quyền lực hay tước quyền bầu cử. Vì
thế cho nên, những quan điểm lý thuyết có thể được kết hợp với các giả định triết học xây
dựng nên bức tranh về các vấn đề đang được xem xét, với những người sẽ được nghiên cứu,

1. Biện pháp khuyến khích sự tham gia của mọi người có tính trung hồi (recursive) hay
theo phép biện chứng và tập trung vào việc mang lại sự thay đổi trong thực tiễn. Như
thế, vào lúc kết thúc các nghiên cứu theo cách tiếp cận tuyên truyền vận động/khuyến
khích sự tham gia của mọi người, các nhà nghiên cứu đưa ra một chương trình hành
động nhằm mục đích thay đổi.
2. Hình thức điều tra này tập trung vào việc giúp các cá nhân tự giải phóng mình khỏi
những điều giới hạn được tìm thấy trong phương tiện truyền thông đại chúng, trong
ngôn ngữ, trong các phương thức làm việc, và ở các mối quan hệ về quyền lực trong
môi trường giáo dục. Các nghiên cứu theo cách tiếp cận tuyên truyền vận
động/khuyến khích sự tham gia của mọi người thường bắt đầu với một vấn đề quan
trọng hay quan điểm về những vấn đề khó khăn trong xã hội, như sự cần thiết của việc
trao quyền.
3. Hình thức điều tra này có tính giải phóng theo nghĩa là nó giúp cho con người được tự
do thoát khỏi những giới hạn của những cấu trúc không hợp lý và bất công hạn chế sự
tự phát triển và quyền tự quyết của con người. Mục đích của các công trình nghiên
cứu theo cách tiếp cận tuyên truyền vận động/khuyến khích sự tham gia của mọi người
là tạo ra một cuộc tranh luận và thảo luận chính trị sao cho thay đổi có thể xảy ra.
4. Hình thức điều tra này có tính thực tế và cộng tác bởi vì là cuộc điều tra được hoàn tất
“cùng với” những người khác chứ không phải “đối với” hay “về” những người khác.
Trên tinh thần này, các tác giả theo cách tiếp cận tuyên truyền vận động/khuyến khích
sự tham gia của mọi người lôi cuốn những người tham gia vào các cuộc điều tra của họ
với tư cách là những cộng tác viên tích cực.

John W. Creswell Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh

18
Những Lời Khẳng định Tri thức theo Chủ nghĩa Thực dụng

Một quan điểm khác về những lời khẳng định tri thức xuất phát từ những người theo chủ
nghĩa thực dụng. Chủ nghĩa thực dụng bắt nguồn từ công trình của Peirce, James, Mead, và

hiểu biết tốt nhất về một vấn đề nghiên cứu.
5. Các nhà nghiên cứu theo chủ nghĩa thực dụng xem xét vấn đề nghiên cứu “cái gì” và
“bằng cách nào” dựa trên những kết quả dự kiến của nghiên cứu đó – họ muốn đi đến
đâu với nghiên cứu đó. Các nhà nghiên cứu theo các phương pháp hỗn hợp cần xác
lập mục đích cho “việc pha trộn” của họ, đó là một cơ sở hợp lý cho những lý do tại
sao dữ liệu định lượng và dữ liệu định tính cần được pha trộn ngay từ đầu.
6. Những người theo chủ nghĩa thực dụng đồng ý rằng nghiên cứu luôn luôn xảy ra trong
những bối cảnh xã hội, lịch sử, chính trị, và các bối cảnh khác. Theo cách này, các
nghiên cứu theo các phương pháp hỗn hợp có thể bao gồm một chiều hướng hậu hiện
đại hay trái với các nguyên tắc hiện đại (postmodern turn), một lăng kính (quan điểm)
lý thuyết phản ánh các mục đích về công bằng xã hội và chính trị.
7. Những người theo chủ nghĩa thực dụng tin tưởng (Cherryholmes, 1992) rằng chúng ta cần
chấm dứt việc nêu ra những câu hỏi về hiện thực và những qui luật của tự nhiên. “Họ
chắc là đơn thuần muốn thay đổi chủ đề” (Rorty, 1983, trang xiv)

John W. Creswell Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh

19
Như thế, đối với nhà nghiên cứu theo các phương pháp hỗn hợp thì chủ nghĩa thực dụng mở
ra cánh cửa đi vào nhiều phương pháp, các quan điểm về thế giới khác nhau, các giả định
khác nhau, cũng như các hình thức khác nhau về thu thập dữ liệu và phân tích dữ liệu trong
nghiên cứu theo các phương pháp hỗn hợp.

Bảng 1.2. Các Chiến lược Điều tra Thay thế khác nhau
Định lượng Định tính Theo Các Phương
pháp Hỗn hợp
Các thiết kế dựa trên thí nghiệm Tường thuật Theo trình tự
Các thiết kế không dựa trên thí
nghiệm như là các cuộc điều tra
(surveys)

thí nghiệm kém chính xác và tỉ mỉ gọi là gần như-thí nghiệm (quasi-experiments) và những
nghiên cứu về tương quan (Campbell & Stanley, 1963), và những thí nghiệm một đối tượng
chuyên biệt (Cooper, Heron & Heward, 1987; Newman & McCormick, 1995). Gần đây hơn,
các chiến lược định lượng bao hàm những thí nghiệm phức tạp với nhiều biến số và nhiều sự
xử lý (thí dụ, các thiết kế theo yếu tố, các thiết kế theo số đo lặp lại). Các chiến lược này
cũng bao gồm các mô hình cấu trúc rất chi tiết mà có đưa vào các mô thức nhân quả và nhận
dạng về sức mạnh tập thể của nhiều biến. Trong cuốn sách này, chúng tôi sẽ tập trung vào hai
chiến lược điều tra: các cuộc thí nghiệm và các cuộc điều tra (surveys).

• Các cuộc thí nghiệm bao gồm những thí nghiệm đích thực, với việc chỉ định theo cách
ngẫu nhiên các đối tượng cho các điều kiện xử lý, cũng như các cuộc thí nghiệm được
John W. Creswell Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh

20
gọi là gần như-thí nghiệm sử dụng các thiết kế không sắp xếp theo ngẫu nhiên
(Keppel, 1991). Gần như-thí nghiệm bao gồm các thiết kế một đối tượng.

• Các cuộc điều tra (surveys) bao gồm các nghiên cứu chéo và nghiên cứu dọc, sử dụng
bản câu hỏi hay những cuộc phỏng vấn được tổ chức có hệ thống để thu thập dữ liệu,
với ý định tổng quát hóa từ mẫu sang tổng thể (Babbie, 1990). Các Chiến lược Gắn liền với Cách Tiếp cận Định tính

Trong nghiên cứu định tính, trong suốt thập niên 1990, số lượng và các loại phương pháp
cũng trở nên có thể thấy được rõ ràng hơn. Có những cuốn sách đã tóm lược nhiều loại khác
nhau (như 19 chiến lược do Wolcott, 2001 định rõ) và các thủ tục hoàn chỉnh hiện có sẵn đối
với các phương pháp điều tra định tính chuyên biệt. Thí dụ, Clandinin và Conelly (2000) đã
xây dựng một bức tranh về những gì “các nhà nghiên cứu theo phương pháp tường thuật làm”,
Moustakas (1994), đã thảo luận về những nguyên tắc triết học và các thủ tục của phương pháp

như với tư cách là một phương pháp. Ở đây, thủ tục bao gồm việc nghiên cứu một số
ít đối tượng thông qua sự cam kết tham gia kéo dài và rộng rãi để xây dựng những mô
thức và những mối quan hệ của ý nghĩa (Moustakas, 1994). Trong qui trình này, nhà
nghiên cứu “đóng dấu ngoặc” để tách biệt những kinh nghiệm riêng của mình nhằm
hiểu được những kinh nghiệm của những người tham gia vào cuộc nghiên cứu
(Nieswiadomy, 1993).
John W. Creswell Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh

21

• Nghiên cứu theo hình thức tường thuật, một hình thức điều tra trong đó nhà nghiên
cứu tìm hiểu cuộc sống của các cá nhân và yêu cầu một hay nhiều hơn một cá nhân
cung cấp những câu chuyện về cuộc sống của họ. Kế đó thông tin này được nhà
nghiên cứu thuật lại hay kể chuyện lại và đưa vào bảng tường thuật sắp xếp theo thứ tự
thời gian xảy ra (bảng niên đại tường thuật). Cuối cùng, bảng tường thuật kết hợp các
quan điểm từ cuộc sống của những người tham gia cuộc nghiên cứu với các quan điểm
từ cuộc sống của chính nhà nghiên cứu thành một bản tường thuật cộng tác (Clandinin
& Connelly, 2000).

Các Chiến lược Gắn liền với Cách Tiếp cận theo Các Phương pháp Hỗn hợp

Những chiến lược bao gồm việc thu thập và phân tích cả hai dạng dữ liệu (định tính và định
lượng) trong một nghiên cứu duy nhất thì ít nổi tiếng hơn chiến lược định tính hay chiến lược
định lượng. Khái niệm pha trộn các phương pháp (methods) khác nhau có lẽ xuất phát vào
năm 1959, khi Campbell và Fiske sử dụng nhiều phương pháp để nghiên cứu giá trị của các
đặc điểm tâm lý. Họ khuyến khích những nhà nghiên cứu khác sử dụng “ma trận đa phương
pháp” của họ để xem xét nhiều phương pháp thu thập dữ liệu trong một cuộc nghiên cứu.
Điều này đã thúc đẩy những nhà nghiên cứu khác sử dụng các phương pháp hỗn hợp, và
không lâu sau đó những cách tiếp cận gắn liền với các phương pháp ở hiện trường như các
quan sát và các cuộc phỏng vấn (dữ liệu định tính) đã được kết hợp với các cuộc khảo sát

cuộc nghiên cứu có thể bắt đầu bằng phương pháp định lượng trong đó các lý thuyết và
John W. Creswell Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh

22
các khái niệm được kiểm định, theo sau bằng phương pháp định tính bao gồm việc khảo
sát chi tiết với một ít trường hợp hay một ít cá nhân.

• Các thủ tục xảy ra đồng thời, trong đó nhà nghiên cứu tập trung dữ liệu định lượng và
định tính để cung cấp một phân tích toàn diện về vấn đề nghiên cứu. Trong thiết kế
này, nhà điều tra thu thập cả hai dạng dữ liệu cùng một lúc trong suốt cuộc nghiên cứu
và kế đó kết hợp những thông tin này vào việc giải thích các kết quả chung. Ngoài ra,
trong thiết kế này, nhà nghiên cứu lồng ghép một dạng dữ liệu vào trong thủ tục thu
thập dữ liệu lớn hơn khác để phân tích những vấn đề khác nhau hay những cấp độ
khác nhau của các đơn vị trong một tổ chức.

• Các thủ tục có tính biến đổi, trong đó nhà nghiên cứu sử dụng một quan điểm (lăng
kính) lý thuyết (xem Chương 7) làm quan điểm bao trùm (có ảnh hưởng đến mọi thứ
và do đó quan trọng) trong phạm vi một thiết kế chứa đựng cả dữ liệu định lượng lẫn
dữ liệu định tính. Quan điểm lý thuyết này cung cấp một khuôn khổ cho những đề tài
được quan tâm, những phương pháp thu thập dữ liệu, và những kết cục hay những
thay đổi được cuộc nghiên cứu này dự kiến. Trong phạm vi quan điểm này có thể tồn
tại một phương pháp thu thập dữ liệu mà cần đến phương pháp theo trình tự hay
phương pháp xảy ra đồng thời.

Bảng 1.3 Các Thủ tục Định lượng, Định tính, và theo Các Phương pháp Hỗn hợp
Các Phương pháp Các Phương pháp
Nghiên cứu Định lượng Nghiên cứu Định tính
Các Phương pháp
Nghiên cứu theo Các Phương
pháp Hỗn hợp

(predetermined) của chúng, việc sử dụng cách đặt câu hỏi đóng (closed – ended) hay mở
(open – ended) của chúng, và trọng tâm của chúng là phân tích dữ liệu bằng số hay là phân
tích dữ liệu không phải bằng số. Các phương pháp này sẽ được phát triển thêm trong các
Chương 9 đến hết Chương 11 như là định lượng, định tính, và theo các phương pháp hỗn hợp.

Các nhà nghiên cứu thu thập dữ liệu trên một công cụ (instrument) hay một bản trắc
nghiệm (thí dụ, một bộ gồm các câu hỏi về quan điểm về lòng tự trọng) hay tập hợp thông tin
John W. Creswell Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh

23
John W. Creswell Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh

24
trên một bản danh mục kiểm tra (checklist) về hành vi (thí dụ, khi các nhà nghiên cứu quan
sát một công nhân tiến hành sử dụng một kỹ năng phức tạp). Ở đầu kia của phổ biến thiên
(continuum), có thể bao gồm việc đến tham quan một địa điểm nghiên cứu và quan sát hành
vi của các cá nhân mà không có những câu hỏi được định trước hoặc việc tiến hành một cuộc
phỏng vấn trong đó cá nhân được phép nói công khai, thành thật về một đề tài, mà hầu như nhà
nghiên cứu không sử dụng các câu hỏi cụ thể. Việc chọn lựa phương pháp của nhà nghiên cứu
tùy thuộc vào việc liệu ý định là nêu rõ loại thông tin sẽ được thu thập trước khi tiến hành cuộc
nghiên cứu hay là cho phép loại thông tin mới xuất hiện từ những người tham gia vào đề án
nghiên cứu. Ngoài ra, loại dữ liệu có thể là thông tin bằng số được thu thập trên thang đo của
các công cụ hay thông tin theo dạng văn bản hơn, ghi chép và tường thuật tiếng nói (ý kiến phát
biểu, quan điểm) của những người tham gia. Trong một số hình thức thu thập dữ liệu, cả dữ
liệu định lượng lẫn dữ liệu định tính đều được thu thập. Dữ liệu dựa trên công cụ (instrument
data) có thể được mở rộng bằng những quan sát mở hay dữ liệu tổng điều tra (dân số) có thể
được theo sau bởi các cuộc phỏng vấn khảo sát có chiều sâu.

BA CÁCH TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU


hậu thực chứng. • Các cuộc điều tra/khảo
sát và các cuộc thí
nghiệm.
• Những lời khẳng định tri thức theo
chủ nghĩa thực dụng. • Theo trình tự, xảy ra đồng thời và
có tính biến đổi.
• Sử dụng các phương
pháp (methods) này
• Các câu hỏi mở, những
phương pháp cho phép
loại thông tin mới xuất
hiện, dữ liệu bằng văn bản
hay hình ảnh.
• Các câu hỏi đóng,
những phương pháp
được định trước, dữ liệu
bằng số.
• Cả câu hỏi mở lẫn câu hỏi đóng, cả
phương pháp được định trước lẫn
phương pháp cho phép loại thông
tin mới xuất hiện, và cả dữ liệu và
phân tích định lượng lẫn dữ liệu và
phân tích định tính.
• Sử dụng những thông

về giá trị được chứng
nhận và độ tin cậy.
• Quan sát và đo lường
thông tin bằng số.
• Sử dụng những phương
pháp không thiên lệch.
• Áp dụng các thủ tục
thống kê.
• Thu thập cả dữ liệu định lượng lẫn
dữ liệu định tính.
• Xây dựng cơ sở lý lẽ biện minh cho
việc pha trộn.
• Hợp nhất dữ liệu ở các giai đoạn
điều tra khác nhau.
• Trình bày các hình trực quan về
các thủ tục trong cuộc nghiên cứu.
• Áp dụng các thông lệ thực hành
của cả nghiên cứu định tính lẫn
nghiên cứu định lượng.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status