Vai trò của kiểm toán độc lập trong việc nâng cao chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay - Pdf 28

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
- BCTC: Báo cáo tài chính
- BGĐ: Ban giám đốc
- CMKT: Chuẩn mực kiểm toán
- CTKT: Công ty kiểm toán.
- HĐQT: Hội đồng quản trị
- KTĐL: Kiểm toán độc lập
- KTV: Kiểm toán viên.
- NĐT: Nhà đầu tư
- VACPA: Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam.
- VAA: Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam
- UBCK: Uỷ ban chứng khoán.
- TNHH: Trách nhiệm hữu hạn.
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động kiểm toán độc lập đã hình thành và phát triển hơn 17
năm nay ở Việt Nam. Đây là một lĩnh vực hoạt động đặc thù - lấy người
sử dụng báo cáo tài chính làm đối tượng phục vụ chính yếu, bởi vậy chất
lượng của các báo cáo kiểm toán ảnh hưởng tới nhiều đối tượng khác
nhau. Từ một loại hình hoạt động chưa hề có ở Việt Nam nay kiểm toán
độc lập đã được xã hội thừa nhận, vai trò và vị trí của kiểm toán độc lập
ngày càng được khẳng định trong nền kinh tế quốc dân. Kiểm toán làm
tăng mức độ tin cậy đối với các thông tin tài chính, góp phần lành mạnh
hoá các quan hệ kinh tế. Dựa vào kết quả kiểm toán, những người sử dụng
báo cáo tài chính được kiểm toán có được các thông tin khách quan, chính
xác, từ đó có thể đánh giá một cách đúng đắn tình hình tài chính cũng như
kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp làm cơ sở cho các quyết
định kinh tế của mình.
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của kiểm toán độc lập quan trọng
như vậy, cho nên việc nâng cao vai trò của kiểm toán độc lập trong việc nâng
cao chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam là rất cấp

từ Audit có ý nghĩa thật của nó. Khi đó, các nhà cầm quyền La Mã đã tuyển
dụng các quan chức để kiểm tra độc lập về tình hình tài chính và nghe thuyết
trình của họ về kết quả kiểm tra độc lập.
Ra sau thêm vài trăm năm nữa, kỹ năng nghe của kiểm toán, dần dần đi
vào trong một hệ thống, khi lúc này trên thế giới, sự ra đời của các công ty
chứng khoán, các hoạt động thương mại trở nên đa dạng và phức tạp, quy mô
của hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng mở rộng dẫn đến sự tách rời
quyền sở hữu của các cổ đông và chức năng điều hành quản lý. Vì vậy các
chủ sở hữu tìm kiếm những cách thức mới để kiểm tra nhằm ngăn chặn hành
vi gian lận của các nhà quản lý và những người làm công. Đáp ứng nhu cầu
đó, KTĐL bắt đầu xuất hiện và phát triển.
Từ hình ảnh về kiểm toán cổ điển là việc kiểm tra tài sản, phần lớn
được thực hiện bằng cách người nghe ghi chép đọc to lên cho một bên độc lập
nghe rồi chấp nhận. Cho đến nay, thực tiễn kiếm toán đã phát triển cao, đặc
biệt ở Bắc Mỹ và Tây Âu bằng sự xuất hiện của nhiều loại hình kiểm toán,
nhiều mô hình tổ chức và bằng sự thâm nhập sâu của kiểm toán vào nhiều
lĩnh vực trong đời sống xã hội. Kiểm toán phát triển mạnh ở các nước có nền
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
1
kinh tế thị trường phát triển, đại diện là các công ty được thành lập từ những
năm cuối của thể kỷ 19 phát triển đến hiện nay và trở thành những CTKT
hàng đầu thế giới như công ty Ernst & Young, công ty Price
WaterhouseCooper, công ty KPMG Peat Marwich, công ty Deloitte Touche
(Big Four).
Ở Việt Nam, trước năm 1975 đã có văn phòng kiểm toán của các
CTKT quốc tế hoạt động ở Sài Gòn. Sau khi đất nước thống nhất, hoạt động
kiểm toán của các văn phòng này không còn thích hợp với nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung lúc bấy giờ. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao
cấp, các hoạt động kinh tế được chỉ đạo thống nhất, định sẵn. Cùng với chế độ
sở hữu tập thể đã dẫn đến việc xác định quyền lợi, trách nhiệm, quyền hạn của

1.1.2. Bản chất và đặc trưng của KTĐL
Trên thế giới hình thức tổ chức của các tổ chức kiểm toán ở các nước
không hoàn toàn giống nhau. Ở mỗi nước luật pháp quy định rõ quyền hạn,
trách nhiệm của các tổ chức kiểm toán, thừa nhận sự khách quan và độc lập
của kiểm toán… vì thế mà xuất hiện rất nhiều định nghĩa khác nhau về
KTĐL:
Theo định nghĩa của Liên đoàn quốc tế các nhà kế toán (International
Federation of Accountants - IFAC) thì “Kiểm toán là việc các KTV độc lập
kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về các bản BCTC”.
Trong giáo trình kiểm toán của các tác giả Alvin A.Rens và James
K.Loebbecker thì:“ Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm
quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng
được của một đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ
phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập”.
Trích từ Auditing - Theory & Practice của John Dunn, University of
Strathclyde, Glasgow nhà xuất bản Prentice Hall: “Kiểm toán là thủ pháp xem
xét và kiểm tra một cách khách quan về từng khoản mục bao gồm việc thẩm
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
3
tra những thông tin đặc trưng được xác định bởi KTV hoặc thiết lập bởi thực
hành chung. Nói tổng quát, mục đích của kiểm toán là trình bày ý kiến hoặc đi
đến kết luận về cái được kiểm toán”.
Ở Việt Nam, theo Nghị định 105 của Chính phủ ngày 30/4/2004:
“KTĐL là việc kiểm tra và xác nhận của KTV và doanh nghiệp kiểm toán về
tính trung thực và hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và BCTC của các
doanh nghiệp, tổ chức (gọi chung là đơn vị được kiểm toán) khi có yêu cầu
của các đơn vị này”.
Đặc điểm của KTĐL thể hiện ở những điểm sau đây :
Một là, Đối tượng KTĐL là các thông tin kinh tế được kiểm toán mà
KTV sẽ đưa ra ý kiến về những thông tin này sau quá trình thực hiện kiểm

thể tự nguyện. Trong đó khách thể bắt buộc gồm: Các doanh nghiệp, tổ chức
có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam; các CTCP niêm yết kinh doanh trên thị trường chứng khoán; các tổ
chức tín dụng hoạt động theo Luật tổ chức tín dụng,ngân hàng thuộc các
thành phần kinh tế; các tổ chức tài chính; doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm,
doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; doanh nghiệp Nhà nước (nếu trong năm
không là khách thể của Kiểm toán Nhà nước). Khách thể tự nguyện là tất cả
các đơn vị, tổ chức, cá nhân còn lại có nhu cầu kiểm toán.
Bốn là, Mục đích của kiểm toán là kiểm tra, xác nhận và báo cáo về
mức độ phù hợp, trung thực, hợp lý của thông tin trình bày trên BCTC phục
vụ cho việc ra quyết định của các đối tượng sử dụng thông tin. Nói cách khác,
mục đích của KTĐL là để có được những thông tin đáng tin cậy.
Trong nền kinh tế thị trường các thông tin tài chính có độ tin cậy, chính
xác và trung thực hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với các chủ
thể trong các hoạt động kinh tế. KTĐL hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu này
của nền kinh tế. Luật pháp nhiều nước khẳng định rằng, chỉ những báo cáo đã
được xem xét và có chữ ký của KTV độc lập mới được coi là hợp pháp, làm
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
5
cơ sở cho Nhà nước tính thuế cũng như các bên quan tâm khác đưa ra các
quyết định kinh tế trong mối quan hệ với doanh nghiệp. Ở nước ta, trong Quy
chế về KTĐL trong nền kinh tế quốc dân ban hành kèm theo Nghị định số
07/CP ngày 29/1/1994 của Chính phủ đã chỉ rõ: “Sau khi có xác nhận của
KTV chuyên nghiệp thì các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của
các đơn vị kế toán là căn cứ cho việc điều hành, quản lý hoạt động ở đơn vị,
cho các cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan tài chính Nhà nước xét duyệt
quyết toán hàng năm của các đơn vị kế toán, cho cơ quan thuế tính toán số
thuế và các khoản phải nộp khác của đơn vị đối với ngân sách Nhà nước, cho
các cổ đông, các nhà đầu tư, các bên tham gia liên doanh, các khách hàng và
các tổ chức, cá nhân xử lý các mối quan hệ”.

Theo chuẩn mực kế toán quốc tế số I (IASI) thì “BCTC cung cấp thông
tin về tình hình tài chính, kết quả hoạt động tài chính, cũng như lưu chuyển
tiền tệ của các doanh nghiệp và đó là các thông tin có ích cho việc ra các
quyết định kinh tế”.
Theo Viện kế toán công chứng Mỹ (AICPA) thì “ BCTC được lập nhằm
mục đích phục vụ cho việc xem xét định kì hoặc báo cáo quá trình của tình
hình đầu tư trong kinh doanh và những kết quả đạt được trong kì báo cáo. Hệ
thống BCTC phản ánh sự kết hợp của những sự kiện được ghi nhận, những
nguyên tắc kế toán và những đánh giá của cá nhân mà trong đó, những
nguyên tắc kế toán và những đánh giá được áp dụng chủ yếu đến việc ghi
nhận các sự kiện”.
Trong hệ thống kế toán Việt Nam, BCTC là loại báo cáo kế toán, phản
ánh một cách tổng quát, toàn diện tình hình tài sản, nguồn vốn, tình hình và
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kì
nhất định. Như vậy BCTC không phải chỉ cung cấp những thông tin chủ yếu
cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như: các nhà đầu tư, các nhà cho
vay, các cơ quan cấp trên, các cơ quan thuế, cơ quan thống kê, cơ quan kế
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
7
hoạch và đầu tư,… mà còn cung cấp những thông tin cho các nhà quản trị
doanh nghiệp, giúp họ đánh giá, phân tích tình hình tài chính cũng như kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.1.2. Vai trò của hệ thống báo cáo tài chính
1.2.1.2.1. Vai trò của hệ thống báo cáo tài chính bên trong doanh nghiệp .
Hệ thống BCTC giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong phân tích
hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Đồng thời, có ý nghĩa cực kì quan
trọng đối với công tác doanh nghiệp. Điều đó được thể hiện ở những vấn đề
mấu chốt sau đây
- BCTC cung cấp những thông tin tổng quát về kinh tế – tài chính, giúp
cho việc phân tích tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phân

chính dưới những góc độ khác nhau
Đối với các nhà đầu tư với mục đích là tìm kiếm lợi nhuận thông qua
việc đầu tư vào mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Do vậy họ luôn mong đợi,
tìm kiếm cơ hội đầu tư vào doanh nghiệp có khả năng sinh lợi cao. Tuy
nhiên, trong điều kiện nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt, các
nhà đầu tư cũng phải tìm biện pháp bảo vệ an toàn cho đồng vốn đầu tư của
họ. Các BCTC chứa đựng các chỉ tiêu tài chính tốt, hứa hẹn nhiều lợi nhuận
sẽ làm giá cổ phiếu của doanh nghiệp trên thị trường tăng vọt. Ngược lại, BC
cho thấy tình hình tài chính xấu và nguy cơ các khoản lỗ sẽ kéo giá cổ phiếu
của doanh nghiệp xuống thấp. Các nhà đầu tư tương lai tìm kiếm cơ hội đầu
tư nhờ các thông tin từ BCTC của doanh nghiệp.
Các chủ ngân hàng và nhà cung cấp tín dung, cũng như các doanh
nghiệp cung cấp vật tư quan tâm đến khả năng sinh lợi và khả năng thanh
toán của doanh nghiệp thể hiện trên các BCTC để xác định khả năng thanh
toán của doanh nghiệp để đưa ra quyết định có nên cho doanh nghiệp vay hay
bán hàng trả chậm cho doanh nghiệp hay không.
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
9
Ngoài ra, các cơ quan quản lý Nhà nước, các viện nghiên cứu kinh tế,
sinh viên , người lao động,… cũng quan tâm đến các BCTC của doanh nghiệp
để đánh giá triển vọng của nó trong tương lai để từ đó đưa ra các quyết định
của mình.
1.2.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính
Chất lượng của thông tin tài chính được quyết định bởi các yếu tố sau:
- Hệ thống kế toán mà DN đang áp dụng trong việc ghi chép giao dịch
và lập báo cáo tài chính. Một hệ thống kế toán được xây dựng và ban hành
phù hợp với nền kinh tế thị trường sẽ tạo nền tảng để các báo cáo tài chính
phản ánh một các nhất quán và đầy đủ về tình hình tài chính và kết quả hoạt
động kinh doanh của DN dựa trên các quy ước và nguyên tắc được công nhận
rộng rãi.

được lập trên cơ sở các nguyên tắc và chuẩn mực theo qui định hay không và
các thông tin đó có trung thực và hợp lý hay không.
Luật pháp yêu cầu và để yên lòng cho người sử dụng thì các báo cáo tài
chính phải được kiểm toán và chỉ có những thông tin kinh tế đã được kiểm
toán mới là căn cứ tin cậy cho việc đề ra các quyết định hiệu quả và hợp lý.
Việc các qui định mang tính pháp lý bắt buộc các thông tin tài chính trước khi
công bố phải được kiểm toán, điều này thể hiện rõ nét vai trò của kiểm toán
trong nền kinh tế. Kiểm toán độc lập không thể thiếu được của hoạt động kinh
tế trong nền kinh tế thị trường. Kiểm toán làm tăng mức độ tin cậy đối với các
thông tin tài chính, góp phần lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế. Dựa vào kết
quả kiểm toán, những người sử dụng báo cáo tài chính được kiểm toán có
được các thông tin khách quan, chính xác theo đó có thể đánh giá một cách
đúng đắn tình hình tài chính cũng như kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp làm cơ sở cho các quyết định kinh tế của mình. Bên cạnh mục
tiêu chính là đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính, các kiểm toán viên, thông qua
quá trình kiểm toán, còn có thể đưa ra những kiến nghị giúp doanh nghiệp
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
11
hoàn thiện hệ thống kiểm soát, nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý tài
chính nói riêng cũng như hoạt động kinh doanh nói chung.
Trong các quan hệ kinh tế nhờ có kiểm toán mà các doanh nghiệp đã
tìm được tiếng nói chung đó là sự tin cậy lẫn nhau, sự thẳng thắn, trung thực
trình bầy về tình hình tài chính của mình. Đây là yếu tố hết sức quan trọng để
đánh giá, lựa chọn đối tác kinh doanh. Đặc biệt trong quan hệ hợp tác kinh
doanh với nước ngoài, nếu nhà đầu tư nước ngoài muốn tìm hiểu về hoạt động
kinh doanh và đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp trước khi
đầu tư, hợp tác kinh doanh thì chi phí cho cuộc kiểm toán sẽ hiệu quả và rẻ
hơn nhiều so với chi phí mà hai bên phải bỏ ra để đàm phán, tự chứng minh
về khả năng tài chính của mình. Đồng thời ý kiến khách quan của kiểm toán
luôn đáng tin cậy hơn. Ngay cả khi các công ty có vốn đầu tư nước ngoài

gióng một hồi chuông báo động về tình trạng chênh lệch lợi nhuận trước và
sau kiểm toán của nhiều doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán. Ấn tượng
nhất vừa qua là chênh lệch kết quả kinh doanh trước và sau kiểm toán của 2
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
13


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status