Giảng dạy thơ Đường ở trường phổ thông dưới góc nhìn của thi pháp học - Pdf 28

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
_________ PHAN THỊ MINH GIẢNG DẠY THƠ ĐƯỜNG Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
DƯỚI GÓC NHÌN CỦA THI PHÁP HỌC Chuyên ngành: Lí luận và Phương pháp dạy học môn văn
Mã số: 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TRẦN XUÂN ĐỀ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2007 LỜI CẢM ƠN
_________


gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Chính vì vậy nền giáo dục Việt Nam

gánh trên vai một trọng trách không nhỏ là làm thế nào để đào tạo được những con
người phát triển toàn diện, có đủ phẩm chất đạo đức, năng lực và trình độ để đưa đất
nước phát triển lên một tầm c
ao mới, sánh vai với các cường quốc năm châu như ý
nguyện của vị Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam – Hồ Chí Minh. Bởi vì ở lĩnh vực
xã hội nào cũng vậy, đều cần người tài, ở thời nào cũng vậy, chính trị giỏi cốt là quy
tụ được nhiều người tài đức, có học vấn, lấy họ làm
gốc để trị nước.
Trong xu thế đó, việc đào tạo một thế hệ trẻ tương lai đáp ứng được những yêu
cầu trên luôn được Đảng và Nhà Nước quan tâm. Đặc biệt là việc đổi mới về phương
pháp dạy và học các bộ môn trong nhà trường phổ thông là một vấn đề rất cần thiết.
Việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và bộ m
ôn Văn nói riêng trong
nhà trường phổ thông không phải là vấn đề mới mẻ. Từ những năm 80, việc thay sách
Văn và Tiếng Việt ở bậc trung học cơ sở, đến nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ
hai (khóa VIII) tiếp tục được triển khai ở trung học phổ thông đã thể hiện việc đổi
mới nội dung và phương pháp dạy học Văn. Đặc biệt, bộ sách giáo khoa Ngữ văn bậc
trung học cơ sở được biên soạn theo chương trình t
rung học cơ sở ban hành kèm theo
Quyết định số 03/2002/QĐ–BGD&ĐT, ngày 24 tháng 1 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo. Bên cạnh những hướng cải tiến chung của Bộ, các chương trình
như: giảm tải, tăng thực hành, gắn với đời sống. Nét cải tiến nổi bật nhất của chương
trình và sách giáo khoa môn Ngữ văn là hướng tích hợp gồm ba phân môn Văn,
Tiếng Việt và Tập làm văn. Đến nay, chương trình đổi mới đã thực hiện đến bậc
trung học phổ thông, sách giáo khoa Ngữ văn 10 và 11 tiếp tục thực hiện tinh thần
tích hợp ở trung học cở sở. Tuy nhiên, làm sao tìm được nhiều biện pháp có hiệu quả
để thực hiện chủ trương đổi mới là một vấn đề không dễ dàng chút nào. Điều này làm
cho nhiều người làm công tác giảng dạy và nhất là giáo viên dạy Văn như chúng t

sông” [65, tr. 9]. Bài
làm của học sinh trong kỳ thi tuyển sinh đại học môn văn năm
2007 vừa nêu cũng như thực trạng dạy và học môn văn trong những năm gần đây đã
cho thấy rõ thực trạng việc dạy và học môn Văn ở bậc phổ thông hiện nay. Tính từ
đầu thập niên 80 đến nay, chương trình và sách giáo khoa đã trải qua nhiều đợt cải
cách, trong đó có chương trình và sách giáo khoa môn văn, tiếng việt và làm văn: cải
cách không chuyên ban, cải cách chuyên ban, rồi chỉnh lý - hợp nhất. Từ năm học
2002 lại bắt đầu thí điểm một vòng cải cách chương trình và sách giáo khoa. Cải cách

liên tục như vậy, nhưng kết quả dạy - học môn văn vẫn tiếp tục sa sút. Một thực trạng
thật đáng buồn!
Khi nói về thực trạng dạy học văn trong nhà trường, Giáo sư Phan Trọng Luận
cũng từng cho rằng: “Một trong những môn học trong nhà trường có khả năng mạnh
mẽ lâ
u bền trong trong việc giáo dục tình cảm nhân văn cho tuổi trẻ là bộ môn văn
học… Phương pháp giảng dạy văn học nhiều thập kỷ qua cũng có phần cứng nhắc,
giản đơn, biến việc giảng dạy văn học nặng nề về xã hội học… Sức mạnh riêng của
văn chương do đó bị hạn chế khá nhiều trong việc hình thành và phát triển những tình
cảm nhân văn thẩm mỹ cho học sinh” [27, tr. 111].
Ý kiến trê
n thiết nghĩ không có gì là quá. Mặc dù Bộ trưởng Bộ Giáo dục
Nguyễn Thiện Nhân luôn kêu gọi và đã có những động thái tích cực như: chống bệnh
thành tích, gian lận trong thi cử, nói không với tiêu cực... để làm thay đổi một cơ chế,
một thói quen không phải ngày một ngày hai mà là cả một quá trình.
Trong chương trình Văn ở trường phổ thông, mảng Văn học nước ngoài cũng
như thơ Đường chiếm một vị trí quan trọng, vì thơ Đường là thành tựu rực rỡ của t

ca Trung Quốc và nhân loại. Đây là bộ phận văn học có ảnh hưởng sâu rộng đến văn
học Việt Nam mà đặc biệt là phần văn học trung đại. Tuy nhiên, vấn đề dạy học thơ
Đường ở trường phổ thông hiện nay còn nhiều hạn chế, giáo viên gặp không ít khó

Văn học Hà Nội, 1996.
- Tinh hoa văn học Trung Quốc của Trần Xuân Đề, Hồ Sĩ Hiệp, Đại học Sư phạm
Tp.HCM, 1997.
- Thi pháp thơ Đường của Nguyễn Thị Bích Hải, Nxb Thuận Hóa, 1997.
- Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam
và văn học Trung Quốc qua cái nhìn so sánh
của Nguyễn Khắc Phi, Nxb Giáo dục, 2001.
- Lịch sử văn học Trung Quốc của Trần Xuân Đề, Nxb Giáo dục, 2002.

● Nhận xét khái quát về các công trình nghiên cứu:
Các công trình, bài viết đề cập rất đa dạng và phong phú về mặt nội dung, nghệ
thuật của thơ Đường. Với các công trình nghiên cứu trên, các tác giả tập trung vào hai
hướng chính:
- Hướng thứ nhất: gồm các tác giả Trần Xuân Đề, Lê Đức Niệm. Nội dung
khái quát bức tranh toàn cảnh thơ Đường, giới thiệu được những giá trị nổi bật về nội
dung, nghệ thuật của các tác giả tiêu biểu cho thi ca đời Đường như: Lí Bạch, Đỗ
Phủ, Bạch Cư Dị.
- Hướng thứ hai: gồm các tác giả Nguyễn Thị Bích Hải, Hồ Sĩ Hiệp, Nguyễn
Quốc Siêu, Trương Đình Tín, Lê Giảng… Nội dung chú trọng về thi luật, thi pháp
thơ Đường và phân tích, bình giảng thơ.
Như vậy, từ hai hướng trên ta thấy, các công trình nghiên cứu đã đề cập đến
nhiều khía
cạnh nội dung, nghệ thuật thơ Đường. Song vẫn chưa hoàn thiện, chưa đi
sâu tìm hiểu phân tích; đặc biệt chưa hướng đến nội dung phương pháp giảng dạy ở
trường phổ thông. Đó cũng là điều tất yếu vì các vấn đề trong thơ Đường quá đa
dạng, quá phong phú nên thường chỉ được các nhà nghiên cứu đề cập đến để kết hợp
lý giải, phân tích những vấn đề mang tính bao quát hơn.

Trên tinh thần kế thừa, học tập các thế hệ đi trước, chúng tôi đã tổng hợp
những tài liệu phong phú có liên quan đến đề tài để làm cơ sở cho việc nghiên cứu

giờ các đối tượng là giáo viên Trung học cơ sở, Trung học phổ t
hông và học sinh
Trung học cơ sở, Trung học phổ thông để rút ra thực trạng dạy và học thơ Đường ở
trường phổ thông, những thuận lợi, khó khăn, nguyện vọng và ý kiến; thống kê, phân
tích để đánh giá thực trạng việc dạy và học ở trường phổ thông hiện nay.
● Phương pháp miêu tả, so sánh, qui nạp: mi
êu tả thực trạng dạy, học thơ
Đường ở trường phổ thông, so sánh đối chiếu các tài liệu, sách hướng dẫn dành cho
giáo viên, học sinh, các tư tưởng, quan điểm
, ý kiến khác nhau xung quanh việc
nghiên cứu, giảng dạy thơ Đường; quy nạp thành những vấn đề có ý nghĩa phương
pháp luận.

5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- “Giảng dạy thơ Đường ở trường phổ thông dưới góc nhìn của thi pháp
học” của chúng tôi là một đề tài mang tính chất học tập và thử nghiệm là chủ yếu.
Tuy nhiên, chúng tôi mong muốn sẽ giúp giáo viên một biện pháp để hướng dẫn học
sinh học tập đồng thời nâng cao chất lượng trong việc cảm t
hụ và giảng dạy tác phẩm
văn học, nhất là trong tình hình đất nước đang phát triển, xây dựng mối quan hệ với
các nước trên thế giới theo tinh thần giao thoa và hội nhập. Mặt khác, với “Giảng
dạy thơ Đường ở trường phổ thông dưới góc nhìn của thi pháp học”, giáo viên sẽ
phần nào thoát khỏi những lúng túng, bế tắc khi thực hiện yêu cầu đổi mới phương
pháp dạy học văn trong nhà phổ thông hiện nay.

- Qua việc điều tra, thống kê một cách nghiêm túc, luận văn sẽ góp phần phản
ánh thực tại dạy và học thơ Đường ở trường phổ thông hiện nay.
- Mạnh dạn đề xuất một số ý kiến cho việc giảng dạy và học tập văn học nước
ngoài nói chung, thơ Đường nói riêng trong nhà trường phổ thông.


(tĩnh) và khả năng tự biến đổi (động) để tồn tại và phát triển. Với phẩm chất đó, văn
học Việt Nam vừa bám rễ sâu vào mảnh đất dân tộc, vừa vươn rộng theo những
nguồn ánh sáng và dưỡng chất mới để không ngừng nảy nở và sinh sôi.
Dù rằng, hình tượng văn học không hiện hữu một cách trực tiếp như các ngành
nghệ thuật khác để có thể nhìn, nắm, lấy được nhưng lại có sức hấp dẫn tuyệt vời
thông qua việc tác động vào trí tưởng tượng và liên tưởng của người đọc.
Ở trường phổ thông,
học sinh bắt đầu làm quen với văn học nước ngoài từ khi
bước vào cấp II với những câu chuyện t
hần thoại, cổ tích của các nước Nga, Đức,
Đan Mạch... Từ những câu chuyện đó, một thế giới thần kỳ đã được tái hiện, kích
thích và khơi gợi trí tưởng tượng của học sinh. Thông qua các nhân vật, bước đầu
hình thành cách nhìn nhận đánh giá, bình phẩm và nhận xét giữa: ác - thiện, chính
nghĩa - bất nghĩa, để từ đó hình thành nhân cách của các em. Ở những cấp học tiếp
theo, các em được tiếp cận những tác phẩm văn học nổi tiếng, tiêu biểu cho các nền
văn học rực rỡ của nhân loại. Ở phương Đông có thể kể đến các bậc thánh thơ: Lí
Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị; các tiểu thuyết gia cổ điển: Thi Nại Am, La Quán Trung,
Tào Tuyết Cần; nhà văn, nhà tư tưởng lớn thời hiện đại Lỗ Tấn, thi sĩ của những tâm
hồn: Ra-bin-đra-nát Ta-go. Ở phương Tây, không thể không nhắc đến ha
i bộ sử thi
kinh điển của Hôme, những kịch gia nổi tiếng như Sếchxpia, Mô-li-e, nhà văn, nhà
thơ lãng mạn V.Hugo, A.Pu-Skin... và bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực Banzắc, văn
hào vĩ đại của Nga Mác-xim Go-rơ-ki… Mỗi một tác giả đều là những người đại diện
xuất sắc cho nền văn học của quốc gia m
ình và tạo được một chỗ đứng trong lòng
hầu hết độc giả trên thế giới.
Văn học là xương sống của nền văn hóa dân tộc. Nếu làm đúng theo chức năng
xã hội của nó, thì văn học là tấm gương phản chiếu trung thực và đầy đủ cuộc sống
về mọi khía cạnh, vật chất và tinh thần, những ý nghĩ, tình cảm và ước mơ, l
à hơi thở

các dân tộc trên khắp châu lục trên thế giới. Tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn
hóa, văn học của nhân loại là một trong những cách
thức tự làm phong phú thêm nền
văn học của dân tộc mình. Mỗi một nền văn hóa đều mang trong mình những sắc
thái văn hóa đặc thù về con người, đất nước, phong tục, tập quán lối sống. Với ý
nghĩa đó, t
ìm hiểu Văn học nước ngoài để học sinh Việt Nam khám phá những giá trị,
những tinh hoa, vẻ đẹp của văn học trên thế giới mà văn học trong nước có thể chưa
đáp ứng một cách đầy đủ được, và từ đó tìm ra những điểm chung, riêng giữa văn học
các nước, đặc biệt là những nước có ảnh hưởng cùng một vùng văn hóa như Trung
Quốc. Chẳng hạn khi học “AQ chính truyện” của Lỗ Tấn, các em có t
hể liên hệ so
sánh với truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao…
Mục đích của việc học văn là để học sinh cảm thụ được cái hay, cái đẹp mà
nhà văn muốn gửi gắm vào tác phẩm của mình, trên cơ sở đó mà tích hợp giá trị của
nhân cách. Sự tích hợp này vừa mang sắc thái cá nhân vừa mang sắc thái cộng đồng.

Dù được sáng tác theo thể loại nào, một công trình sáng tác văn học có giá trị nếu nó
phát ra được một bức tranh làm rung động tâm hồn, truyền cho người tiếp nhận sự
thông cảm đối với cái đáng kính, đáng yêu, đáng khích lệ, cũng như một lòng phẫn
nộ, căm ghét đối với những điều bất công, tàn bạo, phi đạo lý. Văn chương bồi đắp
cho học sinh những tình cảm c
ao đẹp. Hoài Thanh đã nói: “Văn chương gây cho ta
những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có” [48, tr. 60]. Ví dụ, khi
học sinh học truyện ngắn “Cố hương” của Lỗ Tấn sẽ giáo dục các em một tình cảm
yêu mến, gắn bó với nông thôn, có cách nhìn và yêu mến người nông dân thực sự. Đó
là một bài học tốt, giúp các em rung cảm trước sự vật, sự việc và con người để từ đó
có tình cảm v
à tâm hồn văn chương. Thật không sai khi cho rằng văn chương có tác
dụng thanh lọc tâm hồn con người, nâng đỡ con người là thế.

1 Cây bút thần Truyện cổ tích - Trung Quốc 2
2 Ông lão đánh cá và con cá vàng A.Pu-Skin Nga 2
3 Mẹ hiền dạy con Liệt nữ truyện - Trung Quốc 1
4 Buổi học cuối cùng An-Phông-xơ Đô-đê Pháp 2
5 Bức thư của thủ lĩnh da đỏ Xi-át-tơn Mỹ 2

 Lớp 7 (theo SGK cải cách áp dụng từ năm 2003 – 2004)
Bảng 1.2: Nội dung, thời lượng Văn học nước ngoài ở lớp 7
TT Tác phẩm Tác giả Quốc gia Số tiết
1 Mẹ tôi
Ét-môn-đô đơ-A-mi-
xi
I-ta-li-a 1
2 Vọng Lư Sơn bộc bố Lí Bạch
Trung
Quốc
1
3 Tĩnh dạ tư Lí Bạch
Trung
Quốc
1
4 Hồi hương ngẫu thư Hạ Tri Chương
Trung
Quốc
1
5 Phong Kiều dạ bạc Trương Kế
Trung
Quốc
Đọc
thêm

2 Cố hương Lỗ Tấn Trung Quốc 2
3 Những đứa trẻ Mác-xim Go-rơ-ki Nga 2
4 Bàn về đọc sách Chu Quang Tiềm Trung Quốc 2
5
Chó sói và cừu trong thơ ngụ
ngôn của La Phông-ten
Hi-pô-lít ten Pháp 2
6 Mây và sóng
Ra-bin-đra-nát Ta-
go
Ấn Độ 1
4 Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang Đe-ni-ơn Đi-phô Anh 1
5 Bố của Xi-mông Guy đơ Mô-pa-xăng Pháp 2
6 Con chó Bấc Giắc Lân-đơn Mỹ 1
- Tổng số tiết Văn học nước ngoài ở bậc trung học cơ sở : 41 tiết.
- Tổng số tiết Văn học Việt Nam ở bậc trung học cơ sở : 138 tiết.

1.2.2. Cấp trung học phổ thông
 Lớp 10 (theo SGK cải cách áp dụng từ năm 2006 –2007)
Bảng 1.5: Nội dung, thời lượng Văn học nước ngoài ở lớp 10
TT Tác phẩm Tác giả Quốc gia
Số
tiết
1 Uy-lít-xơ trở về Sử thi - Hi Lạp 2
2 Ra-mà buộc tội Sử thi - Ấn Độ 2
3
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo
Nhiên chi Quảng Lăng
Lí Bạch Trung Quốc 1
4 Thu Hứng Đỗ Phủ Trung Quốc 1

uy quyền (Trích Những
người khốn khổ)
Vích-to Huy- gô Pháp 2

 Lớp 12 (theo SGK thí điểm áp dụng năm 2007)
Bảng 1.7: Nội dung, thời lượng Văn học nước ngoài ở lớp 12
TT Tác phẩm Tác giả Quốc gia Số tiết
Số phận con người Sôlôkhốp
1
Một con người ra đời (đọc thêm) M.Gorky
Nga 2
Thuốc
Đại đoàn viên - trích AQ chính
truyện (đọc thêm)
Lỗ Tấn
Trung
Quốc
2
Mãi mê chinh chiến và yêu
đương – trích Những cuộc phiêu
lưu của Tom-xo-y-ơ (đọc thêm)
Mac Tu-ên Mỹ
2
Con người không thể đánh bại –
trích Ông già và biển cả
Hê-minh-uê Mỹ
3
Tự do Ê-luy-a Pháp
2
- Tổng số tiết Văn học nước ngoài ở bậc trung học phổ thông: 27 tiết.

Với tinh thần kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn học thế giới,
mảng Văn học nước ngoài được giảng dạy ở trường phổ thông chiếm một vị trí qu
an
trọng và phù hợp với chương trình: Văn học Việt Nam 269 tiết (chiếm 79,8%), Văn
học nước ngoài 68 tiết (chiếm 20,2%).
Văn học các nước trên thế giới được đưa giảng dạy trong chương trình là
những tác phẩm tiêu biểu của các tác giả nổi tiếng cho từng giai đoạn sáng tác. Thể
loại rất phong phú và đa dạng. Cũng như văn học Việt Nam, đối với những tác phẩm
văn xuôi có dung lượng dài, học sinh sẽ được học những đoạn trích tiêu biểu, ri
êng
những tác phẩm ngắn, đặc biệt là thơ, học sinh được học trọn vẹn tác phẩm.
Phần chú thích về tác giả, tác phẩm, từ khó khá cụ thể và dễ hiểu. Các câu hỏi
ở phần “hướng dẫn đọc – hiểu văn bản” rõ ràng, hướng vào nội dung chính của văn
bản, giúp học sinh tiếp cận văn bản đúng hướng. Tuy nhiên, ở một số câu hỏi khó
(câu hỏi có dấu *) đôi lúc còn mơ hồ, không những rất khó đối với học sinh mà ngay
cả giáo viên cũng gặp trở ngại, khó tìm ra được đáp án phù hợp, thậm chí sách giáo

viên cũng bỏ ngỏ, không có hướng giải quyết.
Phân bố thời gian cho từng bài tương đối phù hợp. Riêng đối với những tác
phẩm khó (thơ Đường), dài (tiểu thuyết) thì thời gian còn ít mà yêu cầu nội dung phải
truyền đạt lại nhiều. Nếu giáo viên giảng kỹ sẽ không đủ thời gian, còn nếu giảng
lướt qua thì thật là tiếc vì truyền đạt kiến thức không sâu, không đủ thời gian hướng
dẫn học si
nh khám phá hết vẻ đẹp ở các phương diện của tác phẩm. Điều này khiến
cho nhiều giáo viên lúng túng, có khi phải tự điều chỉnh thời gian của những tiết học
này với tiết học khác, hoặc phải tự dạy bù vào những giờ ngoại khóa.
● Về thơ Đường
Mối quan hệ giao lưu văn hóa giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc có
nguồn gốc từ xa xưa, trong đó giao lưu văn học luôn luôn xuyên suốt và chưa từng bị
gián đoạn.

học phổ thông
Nội dung
Trường
trung học cơ sở
Trường trung
học phổ thông
Tổng số tiết Văn học Việt Nam (tiết) 138 131
Văn học nước ngoài (tiết) 41 27
Trong đó thơ Đường (tiết) 4 3
Văn học nước ngoài/ tổng số tiết văn bản (%)
41/179
(22,9%)
27/158
(17,1%)
Thơ Đường/ tổng số tiết Văn học Việt Nam (%)
4/138
(2,8%)
3/131
(2,2%)
Thơ Đường/ Văn học nước ngoài (%) 4/41 (9,8%) 3/27 (11,1%)
Tổng số tiết thơ Đường/ Văn học nước
ngoài ở trường phổ thông (%)
7/68
(10,3%)
Như vậy, trong phần Văn học nước ngoài ở trường phổ thông thì thơ Đường
được dành nhiều thời gian hơn (7/68 tiết, chiếm 10,3%). Điều này cũng phù hợp, vì
thơ Đường là thành tựu đặc sắc của thơ ca nhân loại mà nó còn ảnh hưởng sâu sắc đối
với văn học Việt Nam. Cha ông ta trong quá trình xây dựng nền văn học viết đã tiếp
nhận ảnh hưởng của văn học Trung Quốc quả là không nhỏ, đặc biệt là thơ Đường
luật. Thơ Việt Nam thời trung – cận đại có khoảng 3/4 số bài

nghệ thuật, trong đó cốt truyện, trong cách xử lý không gian, thời gian và nhất là cách
xây dựng nhân vật…” [67, tr. 16-17]. Như vậy, nội dung và hình thức của tác phẩm
văn học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cho nên, vận dụng thi pháp học vào giảng
dạy thơ Đường một mặt vừa soi sáng thêm
bản chất và phạm trù nội dung của văn
học, vừa mở ra thêm một cách tiếp cận với tác phẩm, liên quan trực tiếp tới việc cảm
thụ, nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm văn học.

____________________

Chương 2: THƠ ĐƯỜNG VÀ THI PHÁP THƠ ĐƯỜNG
2.1. VỀ NÉT VỀ THƠ ĐƯ
ỜNG
2.1.1. Thời đại hoàng kim của thơ ca
Thơ Đường (608-907) đạt nhiều thành tựu nhất, là đỉnh cao sáng chói của mấy
nghìn năm lịch sử Văn học Trung Quốc. Mỗi bài thơ Đường là một bức tranh sống
động với các màu sắc hài hòa, có âm vang kỳ diệu và sức truyền cảm tuyệt vời, gợi
mở, quyến rũ và đi thẳng vào lòng người đọc, để lại những suy tư trầm lắng và rung
động không nguôi.
Đường thi là sự kết tụ mỹ thuật, tinh hoa văn học nghệ thuật, xứng đáng là viên

ngọc quí vô giá lung linh sáng chói, chẳng bao giờ phai nhạt theo thời gian… Gần
300 năm tồn tại của nhà Đường, người Trung Quốc đã sáng tạo nên một nền thơ ca vĩ
đại. Bộ “Toàn Đường thi” đã tập hợp 48.900 bài thơ của hơn 2.300 nhà thơ. Con số
thực của t
hơ Đường chắc còn lớn hơn, vì bộ “Toàn Đường thi” được sưu tập sau
1.000 năm với rất nhiều thăng trầm biến cố lịch sử. Nhưng đó là mới nói đến số

suy t
hoái, hỗn loạn, nhiều cuộc nổi dậy khắp nơi vì quan lại tham nhũng, sưu cao
thuế nặng. Nền văn học Trung Quốc cũng bị chuyển biến, thơ văn đề cao tình yêu trai
gái thoát vòng lễ giáo, tuy nhiên cũng có những bài thơ vịnh sử phê phán gay gắt giai
cấp quan liêu thống trị, sự tệ hại của vua quan, nỗi đau khổ của dân nghèo cô thế.
Giai đoạn này có những nhà t
hơ nổi tiếng như Đỗ Mục, Ôn Đình Quân, Lí Thường
Ẩn…

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự hưng thịnh của thơ Đường. Là một đất nước
có nền văn hóa lâu đời, trong lịch sử xã hội phong kiến Trung quốc, đời Đường là
một quốc gia phát triển, phồn vinh trên tất cả các phương diện: kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hóa nghệ thuật. Đây là một thời kỳ mà nền văn hóa,
học thuật và nghệ thuật
đã có một bề dày lịch sử với sự kết tinh của bao thế hệ thơ ca trong suốt mấy nghìn
năm của quá trình hình thành lịch sử dân tộc.
Thời Tiên Tần đã từng có một nền triết học, tư tưởng phát triển với nhiều học
thuyết sâu sắc và độc đáo. Từ đời Hán về sau, do chủ trương “độc tôn Nho thuật, bãi
truất bách gia” nên hơn 2.000 năm s
uốt thời kỳ phong kiến chuyên chế của Trung
Quốc chỉ có Nho gia được đề cao, về cơ bản, không có tự do tư tưởng. Đến đời
Đường có một hiện tượng đặc biệt: Nhà nước phong kiến Lí Đường không độc tôn
Nho giáo mà cho phép tất cả các trào lưu tư tưởng được tự do truyền bá. Tất cả các
tôn giáo ngoại lai, kể cả tư tưởng triết học của Trung Quốc đều được phát triển.

Trong đó sự hưng thịnh của ba dòng tư tưởng Nho, Phật, Đạo là đặc trưng nổi bật
trong diện mạo tư tưởng của đời Đường. Kế thừa chế độ khoa cử đời Tùy, nhà Đường
cũng tổ chức các khoa thi để chọn người vào hàng ngũ cai trị; mà thơ là một bộ môn
phải thi nên sĩ tử thời bấy giờ tích cực trau dồi tri thức và nghệ thuật làm thơ. Các nhà
thơ hầu hết đều đỗ tiến sĩ và làm quan, vua thời Đường cũng làm thơ và rất trọng t

thuyết và kế thừa tru
yền thống của bản thân nghệ thuật thơ ca.
Thơ ca nhà Đường vươn lên đỉnh cao mới phong phú đa dạng hơn nhưng vẫn
không thoát ly khỏi bản sắc cố hữu của thi ca Trung Quốc cổ, như một cái cây mà rễ
bám sâu vào đất, hút mọi tinh hoa của đất để sản sinh hoa trái tuyệt vời. Tuy thơ
Đường mang hình thức mới nhưng nó vẫn giữ được cái chất, cái hồn của thơ ca
Trung Quốc trong mấy nghìn năm, nó làm cho thơ Đường đẹp hơn, tuyệt vời hơn cả
sắc lẫn hương.
2.1.2. Sự phong phú đa dạng của thơ ca
● Đề tài
Như trên đã nhận xét: Thơ Đường quả là bức tranh toàn cảnh về thời đại. Đọc
thơ Đường ta thấy c
ó những cảnh thiên nhiên đẹp đến nao lòng người, có thác nước,
có non cao, có âm thanh chùa vắng, có những hàng liễu buồn man mác trong cảnh
chia tay. Thơ Đường có những cảnh đời trái ngược: kẻ giàu sang coi miếng ăn tầm
thường “rượu, thịt ôi”, kẻ nghèo hèn đói rét “xương chết buốt”. Có tiếng ca bi phẫn
bên bàn rượu và cũng có hồn thơ khóc than cho cảnh loạn ly máu đổ xương rơi. Thơ
Đường có cảnh tiễn biệt của tình bạn thâ
m giao, tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình –
khi có người ra trận – cảnh tiễn đưa trên bến sông hay thương nhớ đợi chờ bên khung
cửa. Thơ Đường có hành động anh hùng hiệp khách lại có nước mắt chàng Tư Mã vì
tiếng đàn kĩ nữ mà khóc than số phận, thơ Đường có thế giới kỳ lạ của thần tiên thì
cũng có những tủi nhục của người bán thân, nhặt th
óc rơi, phu kéo xe trong trời nắng.
Thơ Đường có cái đẹp bi hùng lại có cái đẹp tao nhã, chất liệu cuộc sống được thể
hiện trong thơ ca rất phong phú nhưng không thừa thãi. Đôi khi lại là nét chấm phá
như bức tranh thủy mặc mà vẫn mang một hồn thơ lai láng. Tuy thơ Đường vẫn bị gò
bó trong khuôn khổ nhưng ý tình lại toát lên mạnh mẽ từ phong cảnh diễm lệ hùng
tráng cho đến những cảnh bi thương sầu hận đều làm rung động lòng người.
Trong “Diện mạo thơ Đường”, tác giả Lê Đức Niệm có

trường phái sau:
- Trường phái Điền viên sơn thủy: Phái Điền viên sơn thủy còn được gọi là
phái “Vương – Mạnh” bởi vì hai thi nhân tiêu biểu của phái này đó là Mạnh Hạo
Nhiên (689 – 740) và Vương Duy (701 – 761). Mạnh Hạo Nhiên là nhà thơ sống gần
gũi với với cảnh thôn quê lặng lẽ, bình dị. Hình ảnh thiên nhiên nơi thôn dã trong thơ
ông được m
iêu tả đẹp đẽ biết bao. Đó là cảnh thanh nhàn êm ả của làng quê, cảnh
núi sông hùng vĩ và tráng lệ… Người thứ hai đó l
à Vương Duy tự Ma Cật, tuy suốt
đời làm quan nhưng ông thường sống như một ẩn sĩ, là người sùng tín đạo Phật, thơ
mang đậm ý vị thiền nên được mọi người tôn vinh là Thi Phật. Ông là một người rất
đa tài, không những nổi tiếng về thơ mà còn am hiểu về âm nhạc, có tài thư pháp và
là một danh họa. Khi nhận xét về Vương Duy, Tô Thức đời Tống cho rằng: “Thi
trung hữu họa, họa t
rung hữu thi” (Đọc thơ Ma Cật thấy trong thơ có họa, xem họa
Ma Cật thấy trong họa có thơ).
- Trường phái Biên tái: Phái Biên Tái còn được gọi là phái “Cao – Sầm”, đó là
Cao Thích (702 – 765) và Sầm Tham (716 – 770). Thơ của Cao Thích mang đậm chất

Trích đoạn Mao ốc vị thu phong sở phá ca, Thu hứng (Đỗ Phủ) Hoàng Hạc lâu (Thôi Hiệu) Phong Kiều dạ bạc (Trương Kế) ● Trương Kế Khuê oán (Vương Xương Linh) ỨNG DỤNG CỤ THỂ QUA THIẾT KẾ BÀI GIẢNG Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status