Nghiên cứu một số giải pháp nâng cao chất lượng cung ứng thuốc tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 [FULL] - Pdf 28

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Những năm qua ngành y tế có nhiều nỗ lực trong cung ứng thuốc phục vụ
chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Thị trường thuốc đã đáp ứng đủ cho nhu cầu
khám chữa bệnh, tiền thuốc bình quân đầu người ngày một tăng. Tình hình cung
ứng, quản lý sử dụng thuốc trong điều trị đã được chấn chỉnh. Công tác dược
bệnh viện đã có những bước phát triển cơ bản về mọi mặt góp phần không nhỏ
nâng cao chất lượng khám, điều trị tại các cơ sở y tế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng
của cơ chế thị trường, việc sử dụng thuốc thiếu hiệu quả và bất hợp lý trong bệnh
viện đã, đang là điều đáng lo ngại, đó là nguyên nhân làm tăng chi phí cho người
bệnh, giảm chất lượng chăm sóc sức khoẻ và uy tín của các cơ sở khám chữa
bệnh. Tình trạng này sẽ được khắc phục hoặc giảm thiểu nếu có những nguyên
tắc, chính sách phù hợp trong quản lý cung ứng thuốc.
Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 là bệnh viện tuyến cuối của Quân
đội, bệnh viện hạng đặc biệt của Quốc gia, với biên chế 1.260 gường bệnh, đối
tượng phục vụ đa dạng: bộ đội, bảo hiểm y tế và bệnh nhân thu một phần viện
phí, bạn Lào, Campuchia, đặc biệt Bệnh viện có nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ
cho cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước [27]. Bệnh viện khám và thu dung
trung bình khoảng 1.500 bệnh nhân nội trú và 1.800 bệnh nhân ngoại trú mỗi
ngày. Kinh phí mua thuốc tại Bệnh viện gồm 2 nguồn chính: ngân sách Bộ quốc
phòng và quĩ bảo hiểm y tế.
Trong giai đoạn 2005 – 2009 đã có một số đề tài khảo sát, phân tích về
thực trạng cung ứng thuốc tại bệnh viện, kết quả nghiên cứu đã chỉ ra thực trạng
cung ứng thuốc tại Bệnh viện trong những năm gần đây như hoạt động lựa chọn
danh mục thuốc, hoạt động đấu thầu thuốc, hoạt động kho, cấp phát. Trong đó,
còn tồn tại một số vấn đề như: chưa quản lý tách riêng kho đối tượng bộ đội và
bảo hiểm y tế; hoạt động đấu thầu còn dựa trên đánh giá định tính. Tỷ lệ sử dụng
thuốc nhóm vitamin, thuốc bổ trợ và các thuốc không thiết yếu cao, kinh phí
thuốc tập trung vào một số ít chủng loại thuốc [21], [32]. Nhằm giúp Giám đốc
Bệnh viện, Hội đồng thuốc và điều trị, Chủ nhiệm khoa Dược có bằng chứng

Bốn bước trong chu trình cung ứng có quan hệ mật thiết hữu cơ với nhau,
trong đó lựa chọn là bước đầu tiên, tạo tiền đề để hoạt động mua sắm, cấp phát
đạt hiệu quả, sử dụng là bước cuối cùng của chu trình đồng thời là cơ sở quan
trọng cho bước lựa chọn ở chu kỳ tiếp theo. Chu trình cung ứng thuốc cũng cho
thấy để hoạt động một cách trơn tru và đem lại hiệu quả cần thiết phải kết hợp
các hỗ trợ về kỹ thuật và quản lý [29], [69]. MSH đã đưa ra một ví dụ trong chu
trình quản lý cung ứng các nguyên nhân như không lựa chọn thuốc phù hợp, sai
sót trong quản lý số lượng, giá không hợp lý, chất lượng thuốc kém, hư hao
Lựa chọn
Mua sắm
Cấp phát
Sử dụng
Hoạt động
quản lý
4

nhiều, kê đơn không hợp lý, tham nhũng, … có thể làm thất thoát tới 70% chi
phí thuốc. Ngược lại, nếu áp dụng các biện pháp quản lý con số này có thể giảm
xuống còn 30%. Điều này được MSH minh họa bằng một ví dụ dưới đây, chi phí
thuốc giả định là 1.000.000 USD [69].

Hình 1.2. Chi phí thuốc hiệu quả do quản lý khoa học
Theo MSH, chi phí mua thuốc thường chiếm khoảng 30-40% ngân sách
ngành y tế của nhiều nước, phần lớn số tiền đó bị lãng phí do sử dụng thuốc
không hợp lý và hoạt động cung ứng thuốc không hiệu quả [62]. Trong lĩnh vực
cung ứng thuốc bệnh viện ở một vài quốc gia có tới trên 2/3 thuốc bị “lãng phí”
do thực hành quản lý kém bao gồm cả tham nhũng, hư hao [83], [93].
Như vậy, để cải thiện chất lượng chăm sóc y tế, tiết kiệm chi phí và sử
dụng hợp lý nguồn tài chính y tế đòi hỏi mọi hoạt động diễn ra trong bốn bước
lựa chọn, mua sắm, cấp phát, sử dụng phải được quản lý một cách khoa học,

1.000.000USD
300.000USD
700.000USD
Quản

không
hiệu
quả
Quản

hiệu
quả
5

đồng bộ. Sự lỏng lẻo, thiếu khoa học ở bất cứ hoạt động nào, trong bước nào của
chu trình cũng có thể gây giảm hiệu quả, lãng phí chi phí.
1.1.1. Lựa chọn thuốc
Lựa chọn thuốc là bước đầu tiên của chu trình cung ứng thuốc, lựa chọn
thuốc đúng sẽ mang lại hiệu quả cho hoạt động cung ứng thuốc. Tổ chức Y tế
thế giới năm 1999 cũng đã xây dựng một số tiêu chí lựa chọn thuốc như sau [29],
[69]:
Chỉ chọn những thuốc có đủ bằng chứng tin cậy về hiệu quả điều trị, độ
an toàn và trên thực tế sử dụng rộng rãi tại các cơ sở khám chữa bệnh.
Thuốc được chọn phải sẵn có ở dạng bào chế đảm bảo sinh khả dụng, cũng
như sự ổn định về chất lượng trong điều kiện bảo quản và sử dụng nhất định.
Khi có hai hoặc nhiều hơn hai thuốc tương đương nhau về hai tiêu chí trên
cần phải lựa chọn trên cơ sở đánh giá kỹ lưỡng các yếu tố: hiệu quả điều trị, độ
an toàn, giá cả và khả năng cung ứng.
Khi so sánh chi phí cần so sánh tổng chi phí cho toàn bộ quá trình điều trị.
Trong một số trường hợp, sự lựa chọn phụ thuộc vào các đặc điểm địa

[69]. Hệ thống cấp phát tốt phải đảm bảo các điều kiện:
Duy trì cung cấp thuốc đều đặn
Thuốc luôn được bảo quản đúng điều kiện của nhà sản xuất
Giảm thiểu tối đa thuốc kém chất lượng hoặc hết hạn
Duy trì chính xác số liệu kiểm kê, đảm bảo tồn kho hợp lý
Chống mất mát
Phối hợp chặt chẽ với kiểm soát chất lượng,
Kiểm soát tồn kho là hoạt động có ý nghĩa then chốt góp phần xây dựng
một hệ thống cấp phát phù hợp với đặc điểm thực tế của các cơ sở điều trị. Quản
7

lý tốt số liệu tồn kho đòi hỏi nhà quản lý có hệ thống báo cáo sử dụng chính xác,
khoa học, dự đoán đúng tình hình tiêu thụ thuốc, đồng thời có kế hoạch đặt hàng
hợp lý với nhà cung cấp, giảm thiểu chi phí trong quản lý cấp phát.
Lý do chính cần đảm bảo tồn kho thuốc nhằm chắc chắn rằng những loại
thuốc tối cần, thiết yếu luôn sẵn có mọi thời điểm. Lựa chọn số lượng tồn kho
đối với từng mặt hàng thường phụ thuộc vào mức độ thiết yếu của thuốc đó cũng
như lượng tiêu thụ của chúng. Các công cụ phân tích ABC, VEN là những công
cụ hữu ích giúp thực hiện điều này, mặc dù phân tích ABC thể hiện nhiều về giá
trị của thuốc nhưng trong quản lý tồn kho nó cũng rất có giá trị đối với tần xuất
đặt hàng và số lượng đặt hàng.
Theo nhận định của MSH, chìa khoá của hoạt động quản lý tồn kho là đảm
bảo chất lượng phục vụ và tồn kho an toàn. Thông thường hai đại lượng này tỷ
lệ thuận với nhau, nếu tồn kho lớn có nghĩa là thuốc luôn sẵn sàng trong kho và
chất lượng phục vụ sẽ tăng do đáp ứng đầy đủ thuốc mọi lúc, mọi nơi, tuy nhiên,
điều này sẽ làm tăng chi phí quản lý kho, tăng giá trị tồn kho, gây ứ đọng thuốc,
Vì vậy, việc xác định giá trị tồn kho an toàn rất có ý nghĩa nhằm đảm bảo sự
sẵn có của thuốc với lượng tồn kho hợp lý.
Để kiểm soát tồn kho và tần suất đặt hàng, thường dựa vào hai thành phần
chính là lượng tồn kho an toàn và lượng đặt hàng mỗi chu kỳ. Nếu giả sử việc sử


LT

LT

đặt hàng
nhận hàng
Thời gian
I

LT: thời gian giao hàng; SS: lượng tồn kho an toàn; Q
o
: lượng đặt hàng; I: tồn kho trung bình
I = SS + 1/2Q
o

tồn kho an toàn
9

đó là: quản lý nhập thuốc mới; chính sách và hướng dẫn kê đơn; kiểm soát và
tiếp nhận thông tin phản hồi sử dụng thuốc [64].
1.2. THỰC TRẠNG CUNG ỨNG THUỐC BỆNH VIỆN
1.2.1. Thực trạng lựa chọn thuốc
1.2.1.1. Một số yếu tổ ảnh hưởng tới lựa chọn thuốc
* Thị trường Dược phẩm:
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, ngành công nghiệp dược đã
có những bước phát triển nhanh, bền vững, thị trường dược phẩm thế giới ngày
càng mở rộng, phát triển với sự đa dạng về số lượng và chủng loại thuốc, thể
hiện qua lượng thuốc tiêu thụ hàng năm. Năm 2000 lượng thuốc tiêu thụ toàn thế
giới đạt 317,2 tỷ USD đến năm 2003 đạt 466 tỷ USD [6]. Tuy nhiên, thị trường

dụng thuốc an toàn, hợp lý, hiệu quả.
Trong những năm qua, tổng mức chi phí dành cho y tế ở nước ta tăng khá
nhanh, từ 1998 đến 2008, tốc độ tăng chi phí y tế bình quân hàng năm đạt 9,8%.
Tỷ lệ chi phí y tế so với tổng thu nhập quốc dân cũng tăng qua các năm từ 4,9%
năm 1998 lên 6,4% năm 2008 [14], tuy nhiên tỷ lệ này còn thấp so với các nước
phát triển như Mỹ 16% (2007), Thuỵ Sĩ, Pháp, Đức, Bỉ, Áo khoảng 10-11%
(2007) [97]. Trong đó, chi phí cho thuốc ở nước ta, cũng giống như các nước
đang phát triển, luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí cho y tế, ước tính
khoảng 40% tổng chi phí y tế toàn xã hội. Theo báo cáo của Bộ Y tế, số tiền chi
cho thuốc đã tăng gần gấp đôi từ năm 2000 đến năm 2007 [7]. Chi phí tiền thuốc
bình quân đầu người cũng tăng nhanh đặc biệt là sau khi chuyển đổi từ cơ chế
bao cấp sang cơ chế thị trường. Trước thời kỳ đổi mới, tiền thuốc bình quân đầu
người khoảng 0,5USD/người/năm, đến năm 2000 tiền thuốc bình quân đầu
người/năm là 9USD và năm 2003 là 12USD, năm 2008 là 16,45USD, năm 2010
là 22,25USD gấp hơn 50 lần so với trước đổi mới [15].
Hiện nay, thị trường dược phẩm nước ta rất đa dạng, phong phú về số
lượng và chất lượng. Năm 2009, trong tổng số 22.615 số đăng ký thuốc còn hiệu
lực có 10.692 thuốc trong nước, chiếm 47,3%. Giá trị thuốc sản xuất trong nước
11

tăng từ 111,4 triệu USD năm 1996 lên 919 triệu USD năm 2010. Thuốc nội có
giá trị tiêu thụ ngày càng cao trên thị trường, năm 1996 tổng giá trị tiêu thụ đạt
26% thì đến năm 2010 đã đạt được trên 48% [7], [25]. Tuy nhiên, hiện tại ngành
công nghiệp sản xuất dược phẩm nước ta đang gặp phải một số vấn đề bất cập:
qui mô các doanh nghiệp dược nhỏ, trình độ kỹ thuật hạn chế, công nghệ đơn
giản, chất lượng thấp, nguyên liệu phụ thuộc nước ngoài với trên 90% phải nhập
khẩu [5], [23].
* Hệ thống đảm bảo chất lượng
Hệ thống sản xuất, kiểm tra chất lượng, tồn trữ bảo quản, lưu thông phân
phối thuốc không ngừng được tiêu chuẩn hoá theo tiêu chuẩn của tổ chức Y tế

tế có vai trò đặc biệt quan trọng của lãnh đạo các cơ sở y tế, của hội đồng thuốc
và điều trị tại cơ sở. Để đạt được hiệu quả, các tiêu chí lựa chọn phải khách quan
đúng qui trình và có cơ sở. Hội đồng thuốc và điều trị cần phát huy tốt vai trò
trong thực hiện các nhiệm vụ:
+ Xây dựng và thực hiện danh mục thuốc;
+ Quản lý danh mục thuốc (bổ sung và loại bỏ thuốc ra khỏi danh mục);
+ Duy trì danh mục thuốc;
+ Cải thiện vần đề tuân thủ danh mục thuốc.
Trong đó, xây đựng và thực hiện danh mục thuốc (lựa chọn thuốc) cần
tuân thủ theo 04 bước:
Bước 1: Lập một danh mục các vấn đề sức khỏe theo thứ tự ưu tiên điều
trị trong bệnh viện và xác định phương án điều trị đầu tay cho từng trường hợp
cụ thể;
Bước 2: Dự thảo, đưa ra lấy ý kiến góp ý và hoàn thiện danh mục thuốc;
Bước 3: Xây dựng các chính sách và hướng dẫn thực hiện;
Bước 4: Hướng dẫn sử dụng danh mục thuốc và giám sát thực hiện [29].
13

1.2.1.2. Thực trạng lựa chọn thuốc trong bệnh viện
Đối với hoạt động cung ứng thuốc, “lựa chọn thuốc” ảnh hưởng trực tiếp
tới chất lượng khám chữa bệnh tại bệnh viện. Để "lựa chọn thuốc” yếu tố quan
trọng cần xem xét là kinh phí dành cho mua thuốc. Đối với các nhà quản lý, để
lựa chọn thuốc có hiệu quả điều trị cao, an toàn và kinh phí hợp lý luôn là vấn
đề được quan tâm. Thông thường kinh phí mua thuốc chiếm tỷ lệ lớn trong tổng
ngân sách của bệnh viện, khoảng 15-20% ở các nước phát triển và 40-60% ở các
nước đang phát triển [48], [65].
Tất cả các khâu quản lý thuốc trong đó có mua thuốc, bảo quản, phân phối
và sử dụng sẽ thuận lợi hơn nếu như lựa chọn được số lượng thuốc hạn chế trong
danh mục của bệnh viện [29]. Theo tổ chức Y tế thế giới, công tác quản lý thuốc
sẽ không có hiệu quả nếu như có quá nhiều các chủng loại thuốc khác nhau. Một

bệnh viện, điều này không đảm bảo chắc chắn rằng thuốc được kê và sử dụng sẽ
hợp lý và hiệu quả [85].
Tại Việt Nam, việc xây dựng danh mục thuốc đã được thực hiện ở nhiều
bệnh viện, căn cứ xây dựng thường dựa trên danh mục thuốc chủ yếu sử dụng tại
các cơ sở khám chữa bệnh do Bộ Y tế ban hành và là cơ sở để thanh quyết toán
với cơ quan bảo hiểm y tế. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn khoảng 10% bệnh viện
chưa xây dựng danh mục thuốc bệnh viện, 36% bệnh viện vẫn thường xuyên kê
đơn thuốc ngoài danh mục [8]. Trong quá trình lựa chọn thuốc, các bệnh viện
chưa dành nhiều quan tâm tới chất lượng và độ an toàn của thuốc, đa phần chưa
biết sử dụng các phương pháp khoa học như ABC, VEN để phân tích và đánh
giá danh mục thuốc [23].
Một khía cạnh khác đáng quan tâm trong lựa chọn thuốc là vấn đề chất
lượng thuốc, sử dụng các sản phẩm kém chất lượng sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả
điều trị và gây lãng phí, đồng thời ảnh hưởng tới uy tín của hệ thống y tế. Giảm
hiệu quả điều trị ở đây bao gồm việc kéo dài thời gian mắc bệnh, các phản ứng
có hại thậm chí gây tử vong, về khía cạnh kinh tế, thuốc kém chất lượng sẽ gây
lãng phí nguồn lực tài chính y tế [69].
15

Theo báo cáo của WHO, trong những năm gần đây tình trạng thuốc giả
nổi lên như một vấn đề nghiêm trọng của ngành dược. Ở các nước có ngành công
nghiệp phát triển, thị trường dược phẩm, chất lượng dược phẩm được kiểm soát
tốt, tuy nhiên, tỷ lệ thuốc giả vẫn chiếm khoảng 1% [106]. Ở các thị trường dược
các nước đang phát triển, đặc biệt là Châu Á và Châu Phi, nơi mà mức sống còn
thấp, sự giám sát thị trường còn lỏng lẻo sẽ là nơi thuốc giả xâm nhập dễ dàng.
Ở khu vực Nam Á, trong số 391 mẫu artesunate thử nghiệm có tới 50% không
đạt về hàm lượng [70]. Kết quả kiểm tra 197 mẫu thuốc chống sốt rét ở
Madagascar, Senegal và Uganda, tỷ lệ không đạt tiêu chuẩn chất lượng lần lượt
là 44%, 30% và 26% [100].
Thuốc giả là một vấn đề cần hết sức quan tâm và có xu hướng gia tăng ở

sách cho mua thuốc. Tuy nhiên, đa phần vai trò của hội đồng thuốc và điều trị
trong mua thuốc mới chỉ dừng lại ở quyết định danh mục thuốc cần mua và đánh
giá các gói thầu cung cấp thuốc [29].
Xác định số
lượng cần mua
Cân đối nhu cầu
và ngân sách
Chọn phương
thức mua
Lựa chọn
nhà cung cấp
Ký kết
hợp đồng mua
Theo dõi đặt
hàng
Tiếp nhận và
kiểm tra

Thanh toán

Phân phối thuốc
Thu thập thông tin
sử dụng thuốc
Xem xét lại
lựa chọn thuốc
17

Hiện nay, lựa chọn mua thuốc được thực hiện tại bệnh viện thông qua đấu
thầu rộng rãi, chào giá cạnh tranh và mua sắm trực tiếp. Trong những năm gần
đây, một vài hệ thống y tế công cộng ở Mỹ latinh có sử dụng hình thức đấu thầu

phẩm đảm bảo chất lượng, giá cả [22], [24].
Mạng lưới cung ứng thuốc cũng phát triển rộng khắp đã vươn ra hầu hết
các địa bàn trên toàn quốc, đảm bảo cung ứng đủ và kịp thời thuốc phục vụ nhu
cầu của bệnh viện. Theo báo cáo của Cục Quản lý dược, cả nước có 1.676 doanh
nghiệp dược phẩm trong nước, 39 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 91
doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp thuốc, 438 doanh nghiệp nước ngoài cung
cấp thuốc, 38.916 cơ sở bán lẻ thuốc [18].
Nhiều biện pháp nhằm bình ổn giá thuốc như quản lý đấu thầu thuốc, dự
trữ thuốc, khuyến khích phát triển thuốc sản xuất trong nước, cấm sử dụng lợi
ích để khuyến kích kê đơn,… Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn trong bình ổn
giá thuốc trên thị trường, giá thuốc ở Việt Nam cao hơn giá thuốc trên thế giới
cũng như các nước trong khu vực, đấu thầu thuốc nhằm làm giảm giá thuốc trong
bệnh viện chưa có hiệu quả [31]. Theo nghiên cứu của Nguyễn Anh Tuấn, giá
thuốc trung bình tại các cơ sở y tế công ở Việt Nam cao hơn 1,82 lần so với giá
thuốc generic do tổ chức MSH công bố [87]. Sử dụng thuốc không hợp lý dẫn
đến kháng thuốc trong cộng đồng, tăng tác dụng phụ của thuốc, tăng chi phí điều
trị, …. Mức hưởng thụ thuốc mất cân bằng giữa các vùng địa lý, tập trung cao
vào các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh trong khi các tỉnh
miền núi, vùng biên giới, hải đảo lại quá thấp [3].
1.2.3. Giám sát sử dụng thuốc
Thuốc đóng vai trò trung tâm trong hầu hết các can thiệp chăm sóc sức
khỏe, đặc biệt trong bệnh viện, có tới 97% bệnh nhân được sử dụng thuốc [53].
Ở nước ta, kinh phí dành cho thuốc chiếm khoảng 58,7% so với tổng tiền viện
phí [19], ở mức cao so với các nước đang phát triển (chiếm 40-60%) và cao hơn
nhiều so với các nước phát triển (5-15%) [49]. Tổng tiền mua thuốc hàng năm
qua đấu thầu tại các bệnh viện tăng nhanh, năm 2009 khoảng 12,7 nghìn tỷ đến
năm 2010 là 14,6 nghìn tỷ và năm 2011 là 18,5 nghìn tỷ, tỷ lệ tăng trung bình
19

hàng năm trên 20% [19], [20]. Trong đó, tỷ lệ thuốc ngoại nhập chiếm khoảng

tác dụng hoặc còn nghi ngờ tác dụng điều trị với bệnh chính. Điều này có một
phần nguyên nhân là do bệnh nhân nghĩ rằng sẽ tốt hơn nếu nhận được đơn có
nhiều thuốc. Những thuốc được sử dụng quá mức, không cần thiết là các loại
vitamin hỗn hợp và thuốc bổ. Kết quả nghiên cứu của Patel, năm 2005, tại các
nhà thuốc Ấn Độ cho thấy có tới 40% đơn thuốc được kê có chứa vitamin hỗn
hợp và thuốc bổ [71].
Hiện nay, ở các nước đang phát triển vẫn còn hiện tượng lạm dụng thuốc
đường tiêm, kê đơn thuốc tiêm không cần thiết, tiêm thuốc không an toàn, sử
dụng lại các thiết bị tiêm truyền không đảm bảo vô trùng gây tăng nguy cơ lây
nhiễm viêm gan B, C, HIV và các mầm bệnh lây truyền qua đường máu. Trong
một nghiên cứu với 4.197 người ở Ai Cập cho thấy có 26% nhận được thuốc
tiêm trong vòng 3 tháng trước, số lượng thuốc tiêm trung bình trong năm là 4,2
thuốc, có 8% khi tiêm sử dụng syringe không được đựng trong bao bì kín [82].
Tương tự, ở Mongolia, qua phỏng vấn 65 người cho thấy số lượng thuốc tiêm
trung bình họ nhận được trong năm là 13. Ở Pakistan nghiên cứu trên 198 bệnh
nhân có 49% bệnh nhân nhận được thuốc tiêm khi khám bệnh, 91% bệnh nhân
phản ánh khi đi khám bác sĩ khuyên nên dùng thuốc tiêm và 83% tin rằng thuốc
tiêm có hiệu quả tốt hơn [75]. Ở nhiều quốc gia, sử dụng quá nhiều thuốc không
cần thiết như vitamin hỗn hợp, thuốc ho , nguồn lực tài chính cạn kiệt mà đúng
ra nên đầu tư vào mua các loại thuốc thiết yếu hơn cũng như thuốc tối cần như
vaccines hoặc kháng sinh. Trong kết quả nghiên cứu ở Nepal cho thấy trên một
nửa chi phí bị lãng phí do kê đơn không thích hợp [54].
Hoạt động giám sát sử dụng thuốc tại bệnh viện, cần quan tâm theo dõi
biến cố bất lợi của thuốc (ADE) và phản ứng có hại của thuốc (ADR). Việc xác
định ADE rất quan trọng vì đối với những ADE là nguyên nhân của sử dụng
thuốc sai có thể ngăn chặn được và sẽ không ngăn chặn được với các trường hợp
liên quan đến phản ứng dị ứng chưa biết. Theo các nghiên cứu của Dartnell
(1996), Lamour (1991), Simons (1997) tại Australia tỷ lệ gặp ADR tại các bệnh
viện từ 0,31% đến 2,6%. Nghiên cứu về chất lượng chăm sóc sức khoẻ ở Úc do
21

Để hạn chế đến mức thấp nhất những vấn đề không hợp lý trong sử dụng
thuốc, mỗi quốc gia cần có những chiến lược về việc sử dụng thuốc, theo đó
MSH đề nghị thực hiện qua 6 bước [69]:
+ Xác định vấn đề và nhận biết những việc cần phải làm
+ Xác định nguyên nhân cơ bản và các yếu tố cấu thành
+ Liệt kê các can thiệp có thể
+ Lượng giá các nguồn lực sẵn có cho các hoạt động
+ Lựa chọn các giải pháp can thiệp hoặc can thiệp thử nghiệm
+ Kiểm soát và đánh giá tác động của can thiệp.
Trong các bệnh viện, chức năng giám sát sử dụng thuốc thuộc về Hội đồng
thuốc và điều trị. Vai trò của Hội đồng thuốc và điều trị là đảm bảo các thuốc
được kê đơn, phân phối và sử dụng cho người bệnh một cách an toàn, có chất
lượng. Sự tham gia tích cực của Hội đồng thuốc và điều trị đảm bảo ba nội dung
sau [29]:
+ Giám sát và xử lý những sai sót liên quan đến thuốc
+ Giám sát và đảm bảo chất lượng thuốc
+ Giám sát và quản lý phản ứng có hại của thuốc.
1.3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUNG ỨNG
THUỐC BỆNH VIỆN
Để nâng cao chất lượng cung ứng thuốc trong bệnh viện rất nhiều giải
pháp đã được ứng dụng vào tất cả các khâu của chu trình cung ứng, đồng thời
cũng có nhiều hướng dẫn thực hành được các tổ chức nghiên cứu y tế đưa ra như
những cẩm nang hướng dẫn hoạt động cung ứng.
1.3.1. Giải pháp can thiệp lựa chọn thuốc.
Tổ chức Y tế thế giới đã đưa ra quy trình xây dựng danh mục thuốc bệnh
viện bao gồm 04 bước: quản lý hành chính, xây dựng danh mục thuốc, xây dựng
23

cẩm nang danh mục thuốc và duy trì danh mục thuốc, trong đó đề cao vai trò của
HĐT&ĐT bệnh viện. Trong qui trình này bước 2 có vai trò quan trọng vì ảnh

49,5% thuốc nhóm V, 41,2% nhóm E và 9,3% nhóm N. Việc sử dụng này chưa
hợp lý, bệnh viện nên xem xét lại cấu trúc của các loại thuốc mua theo hướng
tăng ngân sách cho các thuốc tối cần và thiết yếu [94].
Nghiên cứu của Alfaro Lara tác động vào hoạt động lựa chọn thuốc mới
dựa trên các ghi chép của HĐT&ĐT và tài liệu hướng dẫn nhập thuốc mới
(GINF) đã chấp nhận lựa chọn 45/72 thuốc đề xuất trong đó có 6 thuốc xác định
có tương đương điều trị, 36 thuốc có chứng minh tác dụng rõ ràng [33].
Tại Việt Nam, các can thiệp tác động vào lựa chọn thuốc trong bệnh viện
cũng đã bước đầu được ứng dụng. Hội đồng thuốc và điều trị các bệnh viện như
bệnh viện Nhi Trung ương, bệnh viện Phổi Trung ương, Bệnh viện Nhân Dân
115 đã ứng dụng các phương pháp phân tích ABC, VEN để điều tra tình hình sử
dụng thuốc. Bệnh viện Nhân Dân 115 đã sử dụng can thiệp dựa trên các phân
tích ABC, VEN để nhận diện các bất hợp lý từ đó tác động đến hội đồng thuốc
và điều trị bệnh viện nhằm kiểm soát thuốc nhóm A, giảm bớt thuốc nhóm N,
hạn chế sử dụng thuốc ngoài danh mục kết quả đã làm giảm thuốc không thiết
yếu sử dụng nhiều ngân sách, loại khỏi danh mục 167 loại thuốc không thiết yếu
[30].
Để xây dựng được một danh mục thuốc phù hợp, HĐT&ĐT cần thực hiện
nhiều nhiệm vụ như thiết lập các chính sách và qui trình, đánh giá các thuốc đưa
vào sử dụng dựa trên mô hình bệnh tật, so sánh thuốc đã sử dụng với mô hình
bệnh tật. Theo nghiên cứu của Vũ Thị Thu Hương tại 37 bệnh viện trên toàn
quốc, HĐT&ĐT tiến hành phân tích danh mục thuốc đã sử dụng, các bệnh viện
tuyến trung ương và tỉnh tiến hành thẩm định các thuốc khi xây dựng danh mục,
ở tuyến huyện chỉ có 6/17 bệnh viện thực hiện điều này [23].
25

1.3.2. Các giải pháp tác động hoạt động mua và quản lý kho.
1.3.2.1. Các giải pháp tác động lên hoạt động đấu thầu
Các tiêu chí về thực hành mua thuốc tốt trong bệnh viện đã được Tổ chức
Y tế thế giới và ngân hàng thế giới thông qua năm 1999 gồm 4 nội dung chính


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status