Quản lý nhà nước đối với các công ty tham gia thị trường chứng khoán16 - Pdf 30

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................. 1
A. LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................3
B.NỘI DUNG.............................................................................................4
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TTCK:......4
1.Khái niệm cơ bản về quản lý và QLNN đối với TTCK:......................4
2. Vai trò của việc quản lý TTCK:............................................................6
3. Chức năng của quản lý TTCK:.............................................................6
4. Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý TTCK:......................................7
4.1. Nguyên tắc thống nhất quản lý về chính trị và kinh tế:....................8
4.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ:.........................................................8
4.3. Nguyên tắc kết hợp giữa các lợi ích kinh tế: ...................................9
4.4. Nguyên tắc hiệu quả:.....................................................................11
5. Các biện pháp quản lý TTCK:............................................................11
5.1. Biện pháp giáo dục chính trị, tư tưởng:........................................13
5.2. Biện pháp hành chính luật pháp:...................................................13
5.3.Biện pháp tổ chức và chỉ đạo:.........................................................14
5.4. Biện pháp kinh tế:..........................................................................15
II. Quản lý nhà nước đối với các công ty tham gia thị trường chứng
khoán..............................................................................................................16
1. Khái niệm..............................................................................................16
2.Nội dung.................................................................................................16
2.1.Quản lý đối với việc phát hành TPCP, Trái phiếu được Chính phủ
bảo lãnh và TPCQĐP...........................................................................16
2.2. QLNN đối với hoạt động PHCK của các doanh nghiệp:................19
2.3.QLNN đối với hoạt động niêm yết và ĐKGD..................................26
2.4. QLNN đối với hoạt động GDCK:...................................................30
1
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
3.các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với các công ty tham

quản lý của nhà nước đối với các công ty phát hành chứng khoán”
Chính vì thế, mà hơn bao giờ hết chúng ta cần phải chuẩn bị một kỹ năng
kỹ càng cả về kiến thức cơ bản và học hỏi kinh nghiệm của một số nước trên thế
giới về tổ chức quản lý và kiểm soát hoạt động của các công ty phát hành chứng
khoán.
3
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
B.NỘI DUNG
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TTCK:
1.Khái niệm cơ bản về quản lý và QLNN đối với TTCK:
Khi xã hội loài người xuất hiện thì nhu cầu quản lý cũng hình thành. Trình
độ quản lý phát triển theo sự phát triển của xã hội qua các phương thức sản xuất
khác nhau. Trong thời đại ngày nay, trong ba yếu tố cơ bản quyết định tới sự
phát triển của xã hội là sức lao động, tri thức và trình độ quản lý thì quản lý
được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu.
“Quản lý là sự tác động liên tục, có định hướng, có tổ chức của chủ thể
quản lý ( người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể ( đối tượng bị quản lý)
trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá,xã hội …thông qua hệ thống pháp luật,
các chính sách, các nguyên tắc, các quy định và bằng các biện pháp cụ thể
nhằm tạo ra mội trường và tạo điều kiện cho sự phát triển của đối tượng bị
quản lý”.
Quy mô của quản lý có thể khác nhau: toàn cầu, khu vực, quốc gia, ngành,
đơn vị…Quy mô khác nhau thì tính chất của quản lý cũng khác nhau. Quản lý ở
phạm vi quốc gia được coi là quản lý Nhà nước, quản lý ở một đơn vị kinh
doanh được coi là quản lý kinh doanh ( quản trị kinh doanh)…
TTCK là một lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế một quốc gia. Vì vậy:
“Quản lý Nhà nước đối với TTCK của một quốc gia là sự quản lý vĩ mô
của Nhà nước đối với các hoạt động xây dựng, vận hành và phát triển của
TTCK”.
Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên các khách thể chịu sự quản

như hỗ trợ huy động vốn, tư nhân hoá hay thực hiện các mục tiêu kinh tế khác
của Nhà nước. Do vậy Chính phủ đóng vai trò chính trong việc tổ chức và quản
lý thị trường.
5
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
2. Vai trò của việc quản lý TTCK:
Vai trò của việc quản lý TTCK là hướng tới việc tạo lập một thị trường
công bằng, công khai, trung thực và hiệu quả.
- Tính công bằng trong hoạt động của TTCK được đảm bảo bằng các biện
pháp quản lý chống độc quyền và bảo vệ sự cạnh tranh lành mạnh trong kinh
doanh chứng khoán, đầu tư chứng khoán, đặc biệt là công bằng với các nhà đầu
tư nhỏ.
- Tính công khai trong hoạt động của TTCK được đảm bảo bằng các biện
pháp quản lý bắt buộc công khai thông tin của các đối tượng tham gia thị trường,
nhằm tránh hoạt động lạm dụng, không lành mạnh.
- Tính trung thực trong hoạt động của TTCK được đảm bảo bằng các hoạt
động quản lý nhằm làm hạn chế những rủi ro phát sinh từ những hoạt động
không đúng đắn, rủi ro lây lan do mất lòng tin của công chúng đầu tư.
Một thị trường mà hệ thống quản lý được xem là có hiệu quả cần phải được
xem xét cả về khía cạnh tiết kiệm chi phí và lợi ích thu được.Tính hiệu quả tỷ lệ
thuận với kết quả và tỷ lệ nghịch với chi phí. Kết quả được đánh giá chủ yếu
thông qua việc thực hiện chức năng huy động vốn dễ, rẻ, luân chuyển vốn, phân
bổ và sử dụng nguồn vốn một cách hợp lý…Chi phí được tính chủ yếu được tính
đến là chi phí cho bộ máy quản lý và những chi phí thất thoát, mất mát do quản
lý kém. Việc quản lý thái quá hoặc không đầy đủ có thể dẫn đến làm tăng chi
phí, làm giảm hiệu quả quản lý thị trường.
3. Chức năng của quản lý TTCK:
Quản lý là một hình thức đặc biệt của hoạt động điều hành, là sản phẩm của
tiến trình phân công lao động và chuyên môn hoá việc quản lý. ở hầu hết các
nước đang phát triển, các chủ thể quản lý luôn có hai chức năng chính: duy trì sự

quán. Con người đề ra các nguyên tắc quản lý nhưng những nguyên tắc này
7
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
cũng chỉ mang tính chất khách quan vì nó nảy sinh từ chính bản chất xã hội.
Khoa học quản lý đã rút ra những nguyên tắc cơ bản của quản lý như sau:
4.1. Nguyên tắc thống nhất quản lý về chính trị và kinh tế:
Trong hoạt động con người thì chính trị và kinh tế là hai phạm vi khác nhau
nhưng lại có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thúc đẩy nhau. Giữa hai phạm vi
hoạt động này không phải lúc nào cũng thống nhất mà nhiều khi chúng có sự
độc lập tương đối nhưng lại có quan hệ tương hỗ và phụ thuộc nhau. Chính trị
nhiều khi là biện pháp để thực hiện các mục tiêu kinh tế và ngược lại, kinh tế lại
là đòn bẩy, là động lực để thực hiện các mục đích chính trị.
Nguyên tắc này cũng được áp dụng trong QLNN đối với TTCK. Yếu tố
kinh tế của TTCK được thể hiện ở chỗ nó được coi như là một thị trường của
các thị trường. Bên cạnh đó, TTCK không chỉ mang lại lợi ích mang tính kinh tế
mà còn có cả các yếu tố chính trị trong đó. Chính vì thế, trong quản lý TTCK, sự
kết hợp giữa kinh tế và chính trị là một yêu cầu bắt buộc, và trong trường hợp có
xung đột giữa hai mục đích thì mục tiêu chính trị phải được đặt lên trên nhất vì
trong chính trị đã bao hàm cả kinh tế. Để TTCK phát huy được hết vai trò, chức
năng của mình thì TTCK phải ổn định, phát triển lành mạnh. Với đặc điểm đây
là một thị trường có tính rủi ro hệ thống rất cao, dễ bị ảnh hưởng khi có thông
tin bất cân xứng trên thị trường thì nếu nhà quản lý không đặt mục tiêu an toàn
ổn định của TTCK lên trước mục tiêu kinh tế thì nguy cơ xảy ra những tác động
không tốt là rất lớn. Tuy nhiên, nhà hoạch định chính sách và quản lý TTCK
cũng không thể lơi là tính kinh tế trong việc thực hiện công tác quản lý. TTCK
cần được hoạt động đúng theo nguyên tắc của thị trường là quy luật tự do cung
cầu và chỉ khi đó TTCK mới đem lại lợi ích thiết thực.
4.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Tập trung dân chủ là tập trung điều hành vào một cơ quan quyền lực cao
nhất. Đây là cơ quan vạch ra đường lối, điều lệ, quy chế, phương hướng, đường

có sự mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội. Vai
9
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
trò của công tác quản lý lúc này là phải tìm cách kết hợp, thoả mãn các lợi ích
theo đúng nhu cầu, đảm bảo cho các lợi ích không đối lập nhau, hỗ trợ thúc đẩy
nhau phát triển. Vấn đề này đòi hỏi công tác quản lý phải chú trọng tới từng loại
lợi ích trong từng mặt hoạt động như đầu tư, huy động vốn, phân chia lợi nhuận,
ban hành các quy định về thuế,…
Khi TTCK hoạt động ổn định, hiệu quả thì các nguồn vốn mới được sử
dụng tối đa nhât và đem lại lợi ích kinh tế. Người cần vốn có được chi phí vốn rẻ
nhất và lợi nhuận đem lại cho người đầu tư là cao nhất. Thực tế, bên cạnh sự
thống nhất chung thì luôn tồn tai mâu thuẫn giữa các lợi ích với nhau, mâu thuẫn
giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, và nguyên nhân phát sinh lại chính từ tính
chất cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị trường. Các nguồn vốn đầu tư được
thông qua TTCK thì lại tập trung chủ yếu vào trong các lĩnh vưc sản xuất, dịch
vụ là những nơi đem lại mức sinh lời cao, dễ thu hồi vốn và mức độ rủi ro lại
thấp. Ngược lại, tại những ngành thuộc lĩnh vực đầu tư mang tính công cộng,
tính xã hội cao như giáo dục, y tế, khoa học…thì lại không mấy được các nhà
đầu tư mặn mà vì khó thu hồi vốn, lợi nhuận thu được thấp và mức độ rủi ro cao.
Rủi ro trên TTCK còn phát sinh khi các cá nhân vì lợi ích riêng mà có thể có
những hành vi không tốt, không minh bạch như tình trạng đầu cơ, các hành vi
gian lận, làm giá gây thiệt hại tới lợi ích chung của toàn bộ thị trường, và khi đó
thì lợi ích của toàn xã hội cũng bị ảnh hưởng. Như vậy, thứ tự ưu tiên trong quản
lý là quyền lợi xã hội nói chung, thể hiện là quyền của người đầu tư phải được
đảm bảo. Khi đó thị trường mới có thể vận hành tốt được và đem lại lợi ích cho
những chủ thể tham gia khác như người môi giới kinh doanh dịch vụ…Do đó
cần phải có sự điều tiết quản lý của Nhà nước mới có thể đảm bảo nguồn vốn
đầu tư cho các ngành phi lợi nhuận hoạt động, đảm bảo sự phát triển đồng đều
và toàn diện của xã hội.
10

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
QLNN được hiểu là Nhà nước giao quyền quản lý cho một hay nhiều cơ
quan của Nhà nước hoặc Chính phủ được phép đặt ra luật pháp hay quy định
cho thị trường và thực thi luật. Cho dù quyền quản lý này nằm trong tay một hay
nhiều cơ quan khác nhau thì vẫn thuộc quyền kiểm soát của Nhà nước. Khi một
nước theo trường phái Nhà nước tham gia nhiều vào quản lý, thông thường là
bẵng cách thông qua một cơ quan chuyên biệt trực thuộc Nhà nước thì việc áp
dụng biện pháp hành chính, luật pháp thường chiếm một vị trí lớn.
Trường phái tự quản lại cho phép chính người tham gia vào TTCK tự đặt ra
luật lệ. Ví dụ như rất nhiều SGDCK có tư cách là một hiệp hội và mọi hoạt động
của SGDCK đều do SGDCK tự đặt ra để mọi thành viên phải tuân theo…Trong
trường hợp này, biện pháp mà Nhà nước phải sử dụng là biện pháp tổ chức,
điều kiển và biện pháp kinh tế.
Mỗi trường phái đều có mặt mạnh và mặt yếu của nó. Tự quản cho phép
các quy định của thị trường phù hợp với yêu cầu của những người tham gia thị
trường, song chính các tổ chức tự quản này đôi khi có khả năng bất chấp và hi
sinh tính thống nhất của thị trường vì quyền lợi trước mắt của các hội viên. Mặt
tốt của các tổ chức tự quản này là thường xuyên có những đổi mới về tập quán
kinh doanh cho phù hợp với sự phát triển thực tế của thị trường, song cũng có
nguy cơ khi các tổ chức này có tính “ phản cạnh tranh” khi chúng tìm cách cố
định giá cả, hạn chế sự tham gia của các thành viên mới và phản đối sự thay đổi
cơ cấu ngành kinh tế khi sự thayđổi đó ảnh hưởng đến quyền lợi của các hội
viên. Trong trường hợp này, nếu có sự quản lý của cơ quan QLNN cùng với sự
hỗ trợ ngân sách cần thiết thì các cơ quan QLNN này có thể vượt qua được vấn
đề quyền lợi trước mắt và thực hiện các thay đổi cần thiết. Mặt khác, các cơ
quan QLNN thường lại thiếu nhân lực cũng như tài chính để vạch ra các chính
sách mang tính kĩ thuật và để trực tiếp giám sát, kiểm soát hoạt động của thị
trường. Trong công tác quản lý, người quản lý phải biết vận dụng khéo léo tất cả
các biện pháp trên để đạt được hiệu quả quản lý cao nhất.
Một số biện pháp điển hình thường được sử dụng là:

13
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
khoán mà còn bao gồm cả việc điều chỉnh và hoàn thiện dần các luật liên quan
để tạo môi trường pháp lý đầy đủ cho sự hình thành và phát triển của thị trường.
Trên thực tế, rõ ràng không thể có được một hệ thống luật pháp hoàn thiện
lý tưởng ngay từ khi TTCK mới hình thành. Do dó, biện pháp quản lý hành
chính là điều cần thiết để điều chỉnh và xử lý những hành vi có nguy cơ hoặc đã
gây thiệt hại cho thị trường, nhất là những thị trường mới nổi và đặc biệt đang ở
trong giai đoạn đầu mới hình thành thị trường. Điều này còn đúng hơn với thị
trường đang còn thiếu những chuyên gia giỏi về kiểm toán, kế toán, hệ thống
hành pháp thiếu những người có hiểu biết về TTCK.
5.3.Biện pháp tổ chức và chỉ đạo:
Tổ chức là định hình các cơ cấu bộ phận tạo thành, xác lập chức năng,
quyền hạn, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động của từng bộ phận, đặt các bộ phận
trong quan hệ đối tác phù hợp, trong một tổng thể hoàn chỉnh. Thể chế hoá tổ
chức là quá trình Nhà nước quy định cơ cấu tổ chức, vạch ranh giới cho từng
cấp quản lý bằng các văn bản pháp luật, các văn bản quy định chức năng, nhiệm
vụ, cơ cấu tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, là những cơ quan QLNN theo
lĩnh vực chuyên môn; quy định cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của DNNN hoặc cơ cấu tổ chức của các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, điều lệ
doanh nghiệp, điều lệ công ty…
Trong quản lý, sự tác động của tổ chức có ý nghĩa hiệu quả và thiết thực.
Nó chỉ cho mọi người, mọi cấp biết trước phải hoạt động theo trật tự quy định
trước, nhằm đạt được những chỉ tiêu định trước. Mặt khác, tổ chức có thể gây
cản trở nếu quy định quá chi tiết, cứng nhắc khiến người thừa hành không phát
huy được sáng kiến, mất tính linh hoạt, sáng tạo. Do đó, bên cạnh công tác tổ
chức phải có sự điều khiển trực tiếp. Điều khiển là sự đôn đốc, chỉ đạo cụ thể
nhằm điều chỉnh kịp thời những sai lệch so với mục tiêu đề ra. Đó là hình thức
tác động tích cực và linh hoạt nhất của biện pháp quản lý.Tổ chức và điều khiển
cần được thực hiện phối hợp lẫn nhau trong quá trình quản lý.

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Như vậy, biện pháp kinh tế có tác dụng rất lớn trong lĩnh vực QLNN đối
với TTCK. Biện pháp này có ưu điểm là không áp dụng những chỉ thị, mệnh
lệnh trực tiếp của chủ thể quản lý nhưng có tác động rất thiết thực và sâu rộng.
II. Quản lý nhà nước đối với các công ty tham gia thị trường chứng khoán
1. Khái niệm
Quản lý Nhà nước đối với TTCK của một quốc gia là sự quản lý vĩ mô của
Nhà nước đối với các hoạt động xây dựng, vận hành và phát triển của TTCK
2.Nội dung
2.1.Quản lý đối với việc phát hành TPCP, Trái phiếu được Chính phủ bảo
lãnh và TPCQĐP
TPCP (gồm Tín phiếu kho bạc, Trái phiếu kho bạc, Trái phiếu công trình
trung ương, Trái phiếu đầu tư, Trái phiếu ngoại tệ và Công trái xây dựng tổ
quốc) và TPCQĐP là công cụ huy động vốn để bù đắp bội chi ngân sách, thực
hiện các chương trình trọng điểm của quốc gia và địa phương, đồng thời là công
cụ để Chính phủ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Hành lang pháp lý cho việc phát
hành các loại trái phiếu này đã được Chính phủ từng bước hoàn thiện. Ngày
20/1/2003,Chính phủ đã ban hành Nghị định 141/2003/NĐ-CP về việc phát
hành TPCP, TPCQĐP và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh thay thế cho Nghị
định 01/2000/NĐ-CP.
Theo các quy định mới này thì TPCP và TPCQĐP đều do Chính phủ quy
định (trừ Công trái xây dựng tổ quốc tuân theo quy định tại pháp lệnh số
12/1999/PL-UBTVQH10 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội). Theo Nghị định
141/2003/NĐ-CP, thì Chính phủ là chủ thể phát hành các loại TPCP, Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh là chủ thể phát hành TPCQĐP. Song các chủ thể này có thể
chuyển quyền cho các cơ quan chức năng trực thuộc như KBNN, Bộ Tài chính,
hoặc các tổ chức tài chính, tín dụng chịu trách nhiệm này. Bộ Tài chính chịu
trách nhiệm hướng dẫn và giám sát việc phát hành, sử dụng, thanh toán các loại
16
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
1999 đến nay, việc phát hành TPCP được bổ xung thêm hình thức ghi sổ và
chứng chỉ quỹ không ghi tên người nắm giữ. Chính phủ cũng đã bổ xung và
từng bước hoàn thiện các phương thức và hình thức phát hành trái phiếu. Nếu
như trước năm 1995 việc phát hành trái phiếu chủ yếu là qua phương thức bán lẻ
qua hệ thống KBNN, đến cuối năm 1995 áp dụng thêm phương thức đấu thầu
qua NHNN, thì từ năm 2002 trở đi, việc phát hành được bổ xung thêm phương
thức đấu thầu qua TTGDCK và phương thức bảo lãnh phát hành. Quyết định số
2276/QĐ-BTC ngày 20/6/2006 do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành về việc tập
trung đấu thầu TPCP tại TTGDCK HN đã khắc phục việc chia cắt trong hình
thức đấu thầu TPCP trước đó, TPCP vừa được đấu thầu tại NHNN, vừa đấu thầu
qua TTGDCK. Từ thực tế cho thấy, tỷ lệ thành công của các phiên đấu thầu
TPCP ngày càng cao và lãi suất huy động ngày càng giảm, nhất là sau khi
TTGDCK HN đưa ra con số 12.005 tỷ đồng huy động được từ thị trường trái
phiếu, nhiều người lạc quan cho rằng hoạt động đầu tự loại chứng khoán này
đang thực sự chuyển biến tích cực và ngày càng hiệu quả hơn. Theo kết quả báo
cáo thống kê, cả 8 phiên đấu thầu trái phiếu diễn ra trong quý I/2007 đều thành
công với tỷ lệ trúng thầu đạt tới 99% ( khối lượng trúng thầu là 3.860 tỷ đồng/
3.900 tỷ đồng khối lượng gọi thầu. Riêng TPCP do KBNN phát hành năm 2006
và 6 tháng đầu năm 2007 qua gần 30 phiên đấu thầu tại TTGDCK HN đã huy
động được 12.695 tỷ đồng cho ngân sách Nhà nước. Hơn nữa, lãi suất đấu thầu
TPCP cũng giảm dần. Lần đầu tiên lãi suất TPCP đã giảm xuống thấp hơn lãi
suất ngân hàng. Cụ thể, lãi suất cơ bản vào ngày 1/6/2007 là 8,25% theo Quyết
định 1143/QĐ-NHNN ngày 29/5/2007, trong khi đó lãi suất trúng thầu TPCP kì
hạn 5 năm vào ngày 11/6/2007 là 7,15% dẫn đến lãi suất bảo lãnh phát hàng
cũng giảm. Điều này đã làm giảm đáng kể gánh nặng ngân sách Nhà nước trong
việc huy động vốn cho đầu tư phát triển, góp phần bình ổn lãi suất cho vay của
NHNN, từ đó góp phần bình ổn kinh tế vĩ mô.[15] Bên cạnh đó, Chính phủ còn
bắt đầu thực hiện việc phát hành TPCP trên thị trường nước ngoài và ban đầu đã
18

Trích đoạn Hoàn thiện bộ máy QLNN đối với TTCK:
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status