Ứng dụng một số trò chơi vận động phát triển sức nhanh cho học sinh nữ khối 10 trường THPT thuận thành số 1 bắc ninh - Pdf 31

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

ĐOÀN THỊ HÂN HOA

ỨNG DỤNG MỘT SỐ TRÒ CHƠI
VẬN ĐỘNG PHÁT TRIỂN SỨC NHANH
CHO HỌC SINH NỮ KHỐI 10 TRƢỜNG
THPT THUẬN THÀNH SỐ 1 – BẮC NINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: CNKHSP TDTT - GDQP

Hƣớng dẫn khoa học

CN. TẠ TẤT VIỆN

HÀ NỘI, 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tên tôi là: Đoàn Thị Hân Hoa
Sinh viên lớp K34 GDTC - GDQP Trường ĐHSP Hà Nội 2
Tôi xin cam đoan đề tài này là của riêng tôi, kết quả nghiên cứu của đề
tài không trùng với bất cứ đề tài nào nghiên cứu về vấn đề này tại Trường
THPT Thuận Thành số 1 – Bắc Ninh. Toàn bộ những vấn đề được đưa ra bàn
luận, nghiên cứu là những vấn đề mang tính thời sự, cấp thiết và đúng thực tế
của Trường THPT Thuận Thành số 1.

Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2012
Sinh viên

5

NXB

Nhà xuất bản

6

QN

Quãng nghỉ

7

STT

Số thứ tự

8

TCVĐ

Trò chơi vận động

9

TDTT

Thể dục thể thao


Bảng 3.1: Kết quả phỏng vấn giáo viên lựa chọn một số trò chơi
vận động phát triển sức nhanh cho học sinh nữ khối 10 trường

24

THPT Thuận Thành số 1 – Bắc Ninh.
Bảng 3.2: Kết quả phỏng vấn mức độ ưu tiên sử dụng test kiểm tra
đánh giá sức nhanh cho học sinh nữ khối 10 trường THPT Thuận

30

Thành số 1 (n=15).
Bảng 3.3: Tiến trình giảng dạy trò chơi vận động cho học sinh nữ
khối 10 trường THPT Thuận Thành số 1 – Bắc Ninh.

31

Bảng 3.4: Kết quả kiểm tra trước thực nghiệm của hai nhóm đối
chứng và thực nghiệm.
Bảng 3.5: Kết quả kiểm tra sau thực nghiệm của hai nhóm đối
chứng và thực nghiệm.
Biểu đồ 3.1: Thành tích chạy nhanh 20m của hai nhóm trước và sau
thực nghiệm.
Biểu đồ 3.2: Thành tích chạy lặp lại 9m – 3m - 6m – 3m – 9m của
hai nhóm trước và sau thực nghiệm.
Biểu đồ 3.3: Thành tích nhặt bóng của hai nhóm thực nghiệm và
đối chứng trước và sau thực nghiệm.

32


Một số nét đặc trưng của trò chơi vận động

8

1.4.

Cơ sở giáo dục sức nhanh

11

Chƣơng 2: Nhiệm vụ, phƣơng pháp và tổ chức nghiên cứu

16

2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

16

2.2. Các phương pháp nghiên cứu chính

16

2.3. Tổ chức nghiên cứu

19

Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu

21


cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đối với thế hệ trẻ, giáo dục
giúp họ trở thành những nhân cách toàn diện. Theo quan niệm ngày nay, con
người phát triển toàn diện là những người: “phát triển cao về trí tuệ, cường
tráng về thể chất, phong phú về tinh thần và trong sáng về đạo đức”, tạo nên
những phong cách Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và của
thời đại, tiến kịp với trào lưu chung của thế giới.
Ngày nay, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến công tác TDTT nói
chung và GDTC trong nhà trường nói riêng, coi sức khỏe là vốn quý của con
người, là loại tài sản quốc gia vô cùng quan trọng. Sự quan tâm đó được thể
hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn
cách mạng với các yêu cầu, nhiệm vụ và tình hình cụ thể.
Chỉ thị 17/CT – TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác TDTT
đến năm 2010 và đặc biệt là Nghị quyết Trung ương II khóa 8 về công tác giáo
dục và đào tạo đã khẳng định rõ GDTC trong trường học là cực kỳ quan trọng.
GDTC không chỉ tác động tích cực tới quá trình phát triển và hoàn thiện thể chất
mà còn góp phần quan trọng phát triển các phẩm chất đạo đức, nhân cách và
những phẩm chất cần thiết cho cuộc sống, học tập và lao động của con người [3].


Chỉ thị số 36 – CT/TW ngày 24 -3-1994 của Ban Bí thư TW Đảng Cộng sản
Việt Nam về công tác thể dục thể thao trong giai đoạn mới khẳng định: “ Phát
triển TDTT là bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội
của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng phát huy nhân tố con người, công tác
TDTT góp phần tích cực nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo dục nhân cách, đạo
đức lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống tinh thần của nhân dân, nâng
cao sức lao động và sức chiến đấu của lực lượng vũ trang ” [2].
Chính vì thế trong những năm gần đây, Bộ GD – ĐT đã không ngừng cải
tiến nội dung, đổi mới chương trình, phương pháp dạy học ngành GDTC trong
các cấp học.
Muốn tạo ra những con người mới như chúng ta vừa đề cập, chỉ có các

chọn và tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Ứng dụng một số trò chơi vận động
phát triển sức nhanh cho học sinh nữ khối 10 trường THPT Thuận Thành
số 1 – Bắc Ninh ”.
Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lí của học sinh nữ khối 10
trường THPT và những đặc điểm của phương pháp sử dụng trò chơi vận động
để GDTC trong trường học, tiến hành nghiên cứu đề tài này với mục đích lựa
chọn và ứng dụng một số trò chơi vận động phát triển sức nhanh cho học sinh
nữ khối 10 trường THPT Thuận Thành số 1 – Bắc Ninh. Hy vọng các trò chơi
được lựa chọn sẽ được ứng dụng có hiệu quả trong công tác GDTC ở trường
THPT Thuận Thành số 1- Bắc Ninh nói riêng và ở các trường THPT nói
chung, làm cơ sở lựa chọn và bồi dưỡng nhân tài thể thao cho đất nước.


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về GDTC
Trong sự nghiệp phát triển thể dục thể thao hiện nay, việc mở rộng các
hoạt động thể dục thể thao quần chúng trong đó có thể thao trường học là vấn
đề hết sức quan trọng. Chỉ thị 36/CT – TW ngày 24/3/1994 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng (khóa VII) giao trách nhiệm cho Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Tổng cục TDTT thường xuyên phối hợp chỉ đạo công tác GDTC, cải tiến
chương trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo giáo viên TDTT
các cấp cho trường học, tạo những điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất để thực
hiện chế độ GDTC bắt buộc ở tất cả các trường học, để việc tập luyện TDTT
trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết học sinh, sinh viên, qua đó phát hiện
và tuyển chọn nhiều tài năng thể thao cho đội tuyển quốc gia.
Trong giai đoạn mới sự nghiệp TDTT cần được tiếp tục phát triển theo
những quan điểm đã nêu trong Chỉ thị 36 CT – TW, và phương hướng nhiệm
vụ đã được đại hội Đảng IX xác định : “Đẩy mạnh hoạt động thể dục thể thao,

thú học tập do nhiều động cơ khác nhau như đua với bạn bè, tự ái, hiếu
danh…cho nên khi giảng dạy giáo viên cần giúp các em xây dựng động cơ
đúng đắn để các em có được hứng thú học tập các môn học nói chung và môn
học GDTC nói riêng.
Về tình cảm: Các em đã biểu lộ rõ hơn về tình cảm của bản thân với
môi trường mình gắn bó, với các thầy cô giáo đã dạy các em. Vì vậy, việc
giáo viên gây được thiện cảm và sự tôn trọng của các em là một trong những
thành công giúp giáo viên có nhiều thuận lợi trong quá trình giảng dạy, thúc
đẩy các em tự giác, tích cực trong học tập.


Về trí nhớ: Các em ở tuổi này giảm dần việc ghi nhớ máy móc, do các
em đã biết cách ghi nhớ có hệ thống, đảm bảo tính logic chặt chẽ và lĩnh hội
được bản chất vấn đề cần học tập. Vậy nên khi giảng dạy GDTC giáo viên có
thể sử dụng phương pháp trực quan kết hợp với giảng giải, phân tích chi tiết kỹ
thuật động tác và vai trò, ý nghĩa cũng như cách sử dụng phương tiện, phương
pháp để các em có thể tự tập một cách độc lập trong thời gian nhàn rỗi.
Các phẩm chất ý chí đã rõ ràng hơn và mạnh mẽ hơn so với lứa tuổi
trước đó. Các em có thể tiếp thu được những bài tập khó và đòi hỏi khắc phục
khó khăn trong học tập.
1.2.2. Đặc điểm sinh lí
Hệ thần kinh: Được tiếp tục phát triển đi đến mức hoàn thiện, khả năng
tư duy, khả năng phân tích trừu tượng hóa được phát triển tạo thuận lợi cho
việc hình thành nhanh chóng phản xạ có điều kiện. Đây là đặc điểm thuận lợi
để các em nhanh chóng tiếp thu và hoàn thiện kỹ thuật động tác. Tuy nhiên
một số bài tập mang tính đơn điệu, không hấp dẫn cũng làm cho các em
chóng mệt mỏi. Cần thay đổi nhiều hình thức tập luyện một cách phong phú,
đặc biệt tăng cường các hình thức thi đấu, trò chơi để gây hứng thú, tạo điều
kiện hoàn thành tốt các bài tập chính, nhất là các bài tập về sức nhanh. Ngoài
ra do sự hoạt động mạnh của tuyến giáp, tuyến sinh dục, hưng phấn và ức chế

nam vào khoảng 70 đến 80 nhịp/phút, nữ 75 đến 85 nhịp/phút. Hệ thống điều
hòa vận động mạch phát triển tương đối hoàn chỉnh. Phản ứng của hệ tuần
hoàn trong vận động mạch tương đối phát triển và huyết áp phục hồi nhanh
chóng. Khi sử dụng các trò chơi vận động có khối lượng và cường độ vận
động lớn cần phải thận trọng và thường xuyên kiểm tra, theo dõi sức khỏe của
học sinh, tránh để các em ham chơi quá sức dẫn đến mệt mỏi.


Hệ hô hấp: Đã phát triển và tương đối hoàn thiện, gần bằng tuổi trưởng
thành. Dung lượng phổi tăng lên nhanh chóng từ lúc 15 tuổi là 2 đến 2,5 lít
đến 16 – 18 tuổi là 3 đến 4 lít. Tần số hô hấp giống như người lớn 10 đến 20
lần/ phút.
Từ sự nghiên cứu, tìm tòi dựa trên cơ sở lí luận và thực tế, nhận thức
được vai trò to lớn của GDTC, theo sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về
công tác GDTC đối với học sinh, trong quá trình giảng dạy chúng tôi đã lựa
chọn và ứng dụng một số trò chơi vận động phát triển sức nhanh cho học sinh
nữ khối 10 trường THPT Thuận Thành số 1 – Bắc Ninh góp phần nâng cao
chất lượng công tác GDTC cho trường THPT Thuận Thành số 1. Các em rất
hào hứng , vui chơi, tham gia nhiệt tình, xua tan căng thẳng, giúp tinh thần
minh mẫn hơn trong những giờ học tiếp theo. Kích thích các em suy nghĩ,
sáng tạo không chỉ trong giờ học thể dục mà cả trong các giờ học khác, một
phần khắc phục được những nhược điểm như trên mà chúng tôi vừa nêu. Học
sinh thêm yêu trường, yêu lớp, yêu thầy cô, gia đình và bạn bè hơn. Các em
hào hứng trong những giờ thể dục, đó là những giờ được chơi trò chơi vận
động, là những giờ mà các em được rèn luyện thể chất. Ở đó, các em rèn
luyện được sự nhanh nhẹn, khéo léo...hỗ trợ cho những kỹ năng trong cuộc
sống, các em được hiểu biết từ các trò chơi đem lại, từ các tố chất thể lực, đến
các phẩm chất đạo đức.
Vì vậy trong phạm vi khóa luận này, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu những
trò chơi mang tính chất vận động thể lực và đặc biệt chú ý tới sự phát triển

điểm của phương pháp này là vừa chơi, vừa học, tạo cho học sinh trạng thái
hưng phấn, qua đó tác dụng đến thân thể, tăng cường sức khỏe. Trong điều
kiện sân bãi dụng cụ cho phép, có thể sử dụng tối ưu điều kiện tự nhiên sẵn
có. Trò chơi vận động có thể biến đổi hợp lí và đa dạng, phong phú. Khi tổ
chức trò chơi nên lựa chọn trò chơi sao cho phù hợp với buổi học. Hoạt động
của người chơi được tổ chức tương ứng với chủ đề được giả định, có tính chất


hình ảnh. Chủ đề tổ chức trò chơi có thể lấy từ hiện thực xung quanh, phản
ánh nhu cầu thực dụng của cuộc sống.
Do sự đa dạng, phong phú của các trò chơi nên việc phân loại trò chơi
có nhiều quan điểm khác nhau. Người ta chia toàn bộ trò chơi làm ba nhóm
chính: Trò chơi sáng tạo, trò chơi vận động và trò chơi thể thao. Ở đây do
điều kiện thời gian, chúng tôi chỉ đi sâu vào nhóm trò chơi vận động, dưới
đây là một số cách phân loại:
Phân loại căn cứ vào những động tác cơ bản trong quá trình chơi như:
Chạy, nhảy, leo trèo... và những trò chơi phối hợp hai hay nhiều động tác trên.
Mục đích của cách phân loại này để người học dễ dàng chọn lọc và sử dụng
kỹ năng vận động cơ bản của học sinh.
Phân loại căn cứ vào các tố chất thể lực trong quá trình chơi như trò
chơi rèn luyện sức nhanh, sức mạnh, sức bền, mềm dẻo, khéo léo. Tuy nhiên
cách phân loại này đôi khi không chính xác.
Phân loại căn cứ vào khối lượng vận động. Một số trò chơi có lượng
vận động không đáng kể được xếp vào loại trò chơi giải trí, trò chơi tĩnh. Một
số trò chơi vận động trung bình, xếp vào trò chơi động. Tuy nhiên cách phân
loại này nhiều khi cũng không chính xác do cách thức tổ chức và tài nghệ của
giáo viên.
Phân loại theo cách chia trò chơi ra làm hai nhóm chính và phụ, trò chơi
chia đội và không chia đội, và một nhóm phụ chuyển tiếp ở giữa. Trò chơi
không chia đội có thể phân ra làm hai loại: Có người điều khiển và không có

Các hình thức đơn giản của sức nhanh tương đối độc lập với nhau. Đặc
biệt những chỉ số về thời gian phản ứng vận động hầu như không tương quan
với tốc độ động tác. Những hình thức kể trên là thể hiện các năng lực tốc độ
khác nhau.
Trong thực tiễn thường thấy sức nhanh được thể hiện tổng hợp. Thí dụ,
thành tích chạy ngắn phụ thuộc vào thời gian phản ứng vận động, tốc độ động


tác đơn (đạp sau, chuyển đùi) và tần số bước. Trong động tác có phối hợp
phức tạp thì tốc độ không chỉ phụ thuộc vào sức nhanh mà còn chịu sự chi
phối của nhiều nhân tố khác. Thí dụ trong chạy thì tốc độ phụ thuộc vào độ
dài bước chạy và tần số động tác, còn độ dài bước chạy phụ thuộc vào độ dài
chi dưới và lực đạp sau. Vì vậy, tốc độ động tác hoàn chỉnh chỉ thể hiện gián
tiếp sức nhanh của con người. Cho nên trong phân tích, đánh giá sức nhanh
phải căn cứ vào mức độ phát triển của từng hình thức đơn giản của nó.
Nhìn chung, năng lực tốc độ của con người mang tính chất đặc thù.
Chuyển sức nhanh trực tiếp chỉ xảy ra đối với các động tác có cấu trúc giống
nhau. Thí dụ, nâng cao thành tích bật xa tại chỗ lập tức ảnh hưởng tới thành
tích chạy ngắn và những động tác khác mà trong đó tốc độ duỗi chân giữ vai
trò quan trọng. Trong khi đó kết quả tập luyện bật xa tại chỗ không hề ảnh
hưởng tới tốc độ bơi, đấm bốc, đánh máy chữ.
1.4.2. Cơ sở sinh lý, sinh hóa của sức nhanh
Thời gian tiềm phục của phản ứng vận động gồm 5 thành phần:
1. Xuất hiện hưng phấn trong cơ quan cảm thụ
2. Dẫn truyền hưng phấn vào hệ thần kinh trung ương.
3. Truyền hưng phấn trong tổ chức lưới và hình thành tín hiệu li tâm.
4. Truyền tín hiệu từ hệ thần kinh trung ương tới cơ.
5. Hưng phấn cơ và cơ hoạt động tích cực.
Trong đó, giai đoạn thứ 3 chiếm nhiều thời gian nhất. Những động tác
được thực hiện với tốc độ tối đa khác hẳn với động tác chậm về đặc điểm sinh

Sức nhanh phản ứng vận động có ý nghĩa thực dụng rất lớn. Trong
cuộc sống, ta thường gặp những trường hợp đòi hỏi đáp lại tín hiệu nào đó
trong khoảng thời gian ngắn nhất.
Tập luyện tốc độ có tác dụng nâng cao sức nhanh phản ứng đơn giản.
Các bài tập về phản ứng vận động không có giá trị nâng cao tốc độ động tác.


Trong thực tế, không nhất thiết phải tác động chuyên môn để phát triển
sức nhanh phản ứng vận động. Bởi vì, sức nhanh phản ứng đã được phát triển
nhờ tập luyện các bài tập tốc độ. Thông thường người ta sử dụng trò chơi vận
động, các môn bóng để rèn luyện phản ứng vận động.
Phương pháp phổ biến nhất trong rèn luyện sức nhanh phản ứng vận
động đơn giản là tập lặp lại phản ứng với các tín hiệu xuất hiện đột ngột. Thí
dụ, lặp lại nhiều lần tiếng súng lệnh, chạy đổi hướng theo tín hiệu.
Bài tập sức nhanh phản ứng đơn giản gồm 2 phần: Tập phản ứng trong
điều kiện thuận lợi và tập tốc độ động tác tiếp theo. Trong thực tiễn huấn
luyện người ta còn sử dụng rộng rãi phương pháp cảm giác vận động do
Gelerstin’ đề xuất năm 1958 để hoàn thiện phản ứng vận động đơn giản. Cơ
sở khoa học của phương pháp này là quy luật về mối tương quan chặt chẽ
giữa sức nhanh phản ứng và tri giác thời gian của con người. Thông thường,
những người có khả năng cảm thụ những khoảng thời gian ngắn thì có sức
nhanh phản ứng cao. Bản chất của phương pháp là hoàn thiện sức nhanh phản
ứng vận động đơn giản thông qua việc hoàn thiện tri giác thời gian.
Tập luyện sức nhanh phản ứng vận động theo phương pháp cảm giác
vận động được tiến hành theo 3 giai đoạn. Trong giai đoạn 1, người tập thực
hiện động tác trong điều kiện phản ứng nhanh nhất đối với tín hiệu. Sau mỗi
lần thực hiện bài tập, HLV thông báo cho người tập về thành tích đạt được.
Trong giai đoạn 2, phản ứng và các động tác sau đó cũng được thực hiện với
tốc độ lớn nhất. Trong giai đoạn này, người tập thông báo cho HLV dự đoán
thành tích của mình, sau đó HLV báo lại thành tích thực tế người tập đạt

2.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu chính
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
2.2.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Phương pháp này là phương pháp thu thập thông tin bằng cách đọc và
phân tích tài liệu tham khảo. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi đi
tìm hiểu, tập hợp các tài liệu như các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị,... của
Đảng và Nhà nước, các sách viết chuyên khảo, tuyển tập và các tư liệu giảng
dạy của TDTT và GDTC, các hồ sơ giảng dạy, huấn luyện, các tài liệu lưu
trữ, các phim ảnh,... tìm hiểu nghiên cứu các sách viết về trò chơi vận động,
về sức nhanh, các sách giải phẫu sinh lí,... Từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau:
sách báo, đài, internet,... Chúng tôi thu thập những tài liệu có liên quan nhằm
mở rộng thêm kiến thức lý luận, tâm sinh lý, phương pháp giáo dục, đặc biệt


là tìm hiểu sâu về trò chơi vận động phát triển sức nhanh cho học sinh THPT.
Phương pháp này được sử dụng trong suốt thời gian nghiên cứu đề tài.
2.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Là phương pháp thu thập thông tin qua hỏi - trả lời giữa nhà nghiên cứu
với các cá nhân, tổ chức khác nhau về các vấn đề cần quan tâm.
Đã sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn gián tiếp và
trao đổi tọa đàm:
- Phỏng vấn trực tiếp là phương pháp thu thập thông tin qua hỏi - trả
lời miệng giữa nhà nghiên cứu và người được hỏi.
- Phỏng vấn gián tiếp là phương pháp thu thập thông tin bằng phiếu
hỏi, phiếu điều tra... theo một hệ thống câu hỏi được chuẩn bị sẵn sàng.
- Trao đổi, tọa đàm là phương pháp thu thập thông tin nhiều chiều giữa
nhà nghiên cứu với một số cá nhân về vấn đề quan tâm.
2.2.3. Phương pháp quan sát sư phạm
Phương pháp quan sát sư phạm là phương pháp nhận thức đối tượng

được trong quá trình nghiên cứu đề tài, xác định tính hiệu quả của các trò chơi
vận động nhằm phát triển sức nhanh cho học sinh nữ khối 10 trường THPT
Thuận Thành số 1. Sau khi thu thập số liệu, đã sử dụng phương pháp thống kê
toán học để xử lý và áp dụng công thức sau:
n

Công thức tính hệ số trung bình cộng:

x 

x
i 1

i

n

n

Công thức tính phương sai:

2 

Công thức tính độ lệch chuẩn:

 ( x  x)

2

i

: Số lượng đối tượng quan sát

i

: Số lần quan sát

t

: Độ tin cậy



: Độ lệch chuẩn

2. 3. Tổ chức nghiên cứu
2.3.1. Thời gian nghiên cứu
Đề tài được tiến hành nghiên cứu từ tháng 12 / 2011 đến tháng 5/2012
và chia làm ba giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Từ tháng 11/2011 đến tháng 12/2011
+ Lựa chọn đề tài.
+ Nghiên cứu tài liệu.
+ Xây dựng đề cương nghiên cứu và bảo vệ đề cương.
- Giai đoạn 2: Từ tháng 01/2012 đến tháng 03/2012
+ Đọc và tham khảo tài liệu.
+ Thu thập và xử lý số liệu.
+ Giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu.
- Giai đoạn 3: tháng 04/2012 đến tháng 05/2012
+ Hoàn thiện đề tài nghiên cứu.
+ Bảo vệ khoá luận.
2.3.2. Địa điểm nghiên cứu


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status