Tiểu luận: “Đánh giá lợi ích của việc thực hiện dự án 3R và vai trò của cộng đồng trong việc thực hiện dự án tại khu vực thị trấn Trâu Quỳ Gia Lâm – Hà Nội”. - Pdf 31

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, tốc độ đô thị hoá ngày càng
tăng cùng đời sống của nhân dân không ngừng được nâng lên dẫn đến lượng
rác thải ngày một tăng. Tổng lượng chất thải rắn phát sinh cả nước mỗi năm
là 28 triệu tấn, dự báo đến năm 2015 tổng lượng chất thải rắn phát sinh là 43,6
triệu tấn, năm 2020 là 67,6 triệu tấn và năm 2025 là 91 triệu tấn.
Chất thải rắn nếu không được xử lý nghiêm túc sẽ gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ và phát triển bền vững.
Đây là một vấn đề bức xúc với toàn xã hội, cần nhận được sự quan tâm đầu tư
đúng mức từ mọi ngành mọi cấp. Phải có biện pháp quản lý, thu gom triệt để,
vận chuyển an toàn và xử lý hiệu quả. Để giảm thiểu áp lực của rác thải lên
môi trường, một số đô thị nước ta đã thí điểm việc phân loại rác tại nguồn và
bước đầu đã đạt được một số kết quả nhất định
Hòa cùng xu thế phát triển và hội nhập của cả nước, những năm gần
đây thị trấn Trâu Quỳ đã có những bước tăng trưởng khá vững chắc cả về
kinh tế, văn hóa và đời sống tinh thần. Dân số tăng nhanh, tỉ lệ gia tăng tự
nhiên và đặc biệt tỉ lệ gia tăng cơ học cao. Một trong những nguyên nhân dẫn
đến tình trạng này là do thị trấn Trâu Quỳ có trường Đại học Nông Nghiệp Hà
Nội - một trong những trường đại học trọng điểm của quốc gia với hàng chục
nghìn sinh viên, nghiên cứu sinh…. đang theo học và nghiên cứu. Sinh viên
đến cư trú ngày một gia tăng cùng với người dân trong vùng làm cho lượng
rác thải ra hàng ngày tương đối lớn và có chiều hướng ngày càng gia tăng
nhanh chóng. Tháng 10/2009 UBND huyện Gia Lâm triển khai dự án PLRTN
trên địa bàn thị trấn Trâu Quỳ với sự hỗ trợ kinh phí của Vùng Ile -de –
France. Dự án đã đạt được một số thành tựu ban đầu tuy nhiên vẫn còn nhiều
hạn chế. Để thấy được hiệu quả cụ thể về mặt kinh tế cũng như môi trường
1


mà dự án mang lại và để dự án có thể triển khai rộng hơn trong thành phố

những vật đã bỏ đi, thường ít được sử dụng hoặc ít có ích và không có lợi cho
con người.[23].
Các nguồn sinh ra chất thải: dân cư, thương mại, công nghiệp, xây
dựng, hoạt động nông nghiệp, khu vực xử lí chất thải…
Chất thải rắn sinh hoạt
Chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) là chất thải rắn phát thải trong sinh
hoạt cá nhân, hộ gia đình, nơi công cộng.[9].
Thu gom chất thải rắn
Thu gom chất thải rắn là hoạt động tập hợp, phân loại, đóng gói và lưu
giữ tạm thời chất thải rắn tại nhiều điểm thu gom tới địa điểm hoặc cơ sở
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.[3].
Lưu giữ chất thải rắn là việc giữ chất thải rắn trong một khoảng thời
gian nhất định ở nơi được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận trước khi vận
chuyển đến cơ sở xử lý.[3].
Xử lý chất thải
Xử lý chất thải là dùng các biện pháp kỹ thuật để xử lý các chất thải và
không làm ảnh hưởng tới môi trường; tái tạo ra các sản phẩm có lợi cho xã
hội nhằm phát huy hiệu quả kinh tế.[3]
Quản lí môi trường
Quản lí môi trường là sự tác động liên tục, có tổ chức, có phương
hướng và mục đích xác định của chủ thể (con người, địa phương, quốc gia, tổ
chức quốc tế...) đối với một đối tượng nhất định (môi trường sống) nhằm khôi
phục, duy trì và cải thiện tốt hơn môi trường của con người trong khoảng thời
gian dự định.[4].
3


3R
3R là từ viết tắt của 3 chữ cái đầu trong tiếng Anh: Reduce – Reuse –
Recycle.

kg/người/ngày, ở thủ đô Kuala Lumpur là 2 kg/người/ngày.[1].
Hồng Kông
Hồng Kông là thành phố đông đúc và náo nhiệt với số dân khoảng 6,9
triệu người, là một trong những khu vực có mật độ dân cư lớn nhất thế giới,
mỗi ngày thải ra khoảng 7.700 tấn chất thải.
Thách thức đối với Hồng Kông là việc quản lý các loại chất thải đang
gia tăng (kể từ năm 1986 tăng 3% mỗi năm) và việc tìm kiếm các bãi đổ chất
thải thay thế bãi chôn lấp hiện nay đã quá tải. Với sự gia tăng về dân số và kinh
tế phát triển, năm 1990, lượng chất thải sinh hoạt tính theo đầu người tăng từ
0,95 lên 1,11 kg/người/ngày trong năm 2002. Với tình trạng này, Hồng Kông
sẽ hết nơi chôn lấp chất thải sớm hơn dự tính.[1].
Bungari
Vào năm 2001 - 2004, lượng chất thải phát sinh trung bình ở Bungari là
13,45 triệu tấn. Phát sinh chất thải rắn đô thị trên đầu người trong năm 2004 là 472
kg; dưới mức trung bình của EU-25 là 537 kg và thấp hơn đáng kể so với mức
trung bình của EU-15 là 580 kg. Lượng chất thải rắn đô thị được thu gom trong
năm 2004 là 3,09 triệu tấn, ít hơn năm 2003 là 4%.[1].
2.2.2. Tại Việt Nam
Theo Báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam 2004, trên cả nước đã
phát sinh 15 triệu tấn chất thải rắn (CTR) trong đó khoảng 250.000 tấn chất
thải nguy hại. CTR sinh hoạt (đô thị và nông thôn) chiếm khối lượng lớn với
số lượng khoảng 13 triệu tấn, CTR công nghiệp phát sinh vào khoảng 2,8
triệu tấn và CTR từ các làng nghề là 770.000 tấn. Do quá trình đô thị hoá diễn
ra mạnh mẽ, tỷ lệ phát sinh CTR sinh hoạt đang tăng nhanh trung bình đạt 0,7
- 1,0 kg/người/ngày và có xu hướng tăng đều 10 - 16% mỗi năm. Trong số
hơn 15 triệu tấn CTR có:
- 12,8 triệu tấn (khoảng 80% tổng lượng chất thải) phát sinh từ các hộ
gia đình, nhà hàng, chợ, khu kinh doanh.
- 2,6 triệu tấn (chiếm 17%) từ các cơ sở công nghiệp.
5

Chất thải nguy hại phát

6.400.000
6.400.000
tấn/năm

128.400

125.000

3.400

tấn/năm

2.510.000

1.740.000

770.000

71

20

0,8

0,3

tấn/năm
sinh từ nông nghiệp


Chất thải rắn sinh hoạt đô thị
Lượng chất thải rắn sinh hoạt tại các đô thị ở nước ta phát sinh ngày
càng tăng, tính trung bình mỗi năm tăng khoảng 10 - 15% .Tỷ lệ tăng cao tập
trung ở các đô thị đang mở rộng, phát triển mạnh cả về quy mô lẫn dân số và
các khu công nghiệp, như các đô thị tỉnh Phú Thọ (19,9%), thành phố Phủ Lý
(17,3%), Hưng Yên (12,3%), Rạch Giá (12,7%), Cao Lãnh (12,5%)... Các đô
thị khu vực Tây Nguyên có tỷ lệ phát sinh chất thải rắn sinh hoạt tăng đồng
đều hàng năm và với tỷ lệ tăng ít hơn (5,0%). Theo thống kê năm 2002, lượng
CTR sinh hoạt trung bình từ 0,6 - 0,9 kg/người/ngày ở các đô thị lớn và 0,4 0,5 kg/người/ngày ở các đô thị nhỏ, thị trấn, thị tứ. Đến năm 2008 và đầu
2009, tỷ lệ này ở các đô thị lớn đã tăng lên tương ứng là 0,9 -

1,3

kg/người/ngày (bảng 2.2).
Bảng 2.2. Phát sinh chất thải rắn sinh hoạt
Lượng phát thải
Khu vực

theo đầu người
(kg/người/ngày)

Đô thị (toàn quốc)
- Tp. Hồ Chí Minh
- Hà Nội
- Đà Nẵng
Nông thôn (toàn quốc)

0,8
1,3


Theo Chi cục bảo vệ MT Hà Nội năm 2009, tổng lượng CTR sinh hoạt
của thành phố khoảng 5.000 tấn/ngày, trong đó có khoảng 3.500 tấn/ngày
CTR sinh hoạt đô thị và khoảng 1.500 tấn/ngày CTR sinh hoạt nông thôn.
Chất thải xây dựng khoảng 1.000 – 1.200 tấn/ngày, chất thải công nghiệp và
chất thải nguy hại khoảng 750 tấn/ngày, bùn bể phốt và chất thải khác 500 –
600 tấn/ngày, chất thải y tế nguy hại trên 5 tấn/ngày. Lượng CTR sinh hoạt
tăng lên theo thời gian do Hà Nội mở rộng địa giới hành chính, do gia tăng
dân số và mức sống của người dân được nâng lên. Khối lượng CTR sinh hoạt
phát sinh ở Hà Nội năm 2002 là 1.500 tấn/ngày và đã tăng lên 2.500 tấn/ngày
vào năm 2006, 2.800 tấn/ngày vào năm 2007 và khoảng 5.000 tấn/ngày vào
năm 2009. Nhưng việc xử lý chúng của các công ty, xí nghiệp môi trường
chưa theo kịp thực tế.
2.3. Tình hình quản lý, xử lý chất thải rắn
2.3.1. Tình hình quản lý, xử lý chất thải rắn trên thế giới
Hệ thống quản lý rác thải
Có nhiều thành phần trong hệ thống quản lý rác thải (hình 2.1). Hệ
thống quản lý rác thải tốt là hệ thống mà trong đó mỗi thành phần đều được
giải quyết đồng bộ và hiệu quả.
Hoạt động chính về quản lý rác thải áp dụng cho một khu vực bất kì
bao gồm:


Thành lập cơ quan chuyên trách ;



Xác định địa bàn quản lý, ranh giới hành chính, địa lý;





Biện pháp quản lý tổng hợp rác thải.

Rác thải ra

Tàng trữ

Thu gom

Trạm trung chuyển

Sản xuất và tái chế

và vận chuyển

Đổ thải

Hình 2.1. Mô hình quản lý rác thải.
Tại Singapo
9


Là một nước nhỏ, Singapo không có nhiều diện tích đất để chôn lấp
chất thải rắn như những quốc gia khác nên đã kết hợp xử lý rác bằng phương
pháp đốt và chôn lấp. Cả nước Singapo có 3 nhà máy đốt rác. Những thành
phần chất thải rắn không cháy được chôn lấp ở bãi rác ngoài biển. Bãi chôn
lấp rác Semakau được xây dựng bằng cách đắp đê ngăn nước biển ở một đảo
nhỏ ngoài khơi Singapo. Rác thải từ các nguồn khác nhau sau khi thu gom
được đưa đến trung tâm phân loại rác. Ở đây rác được phân loại ra những

kinh doanh, nơi chất thải phát sinh.
+ Chôn lấp: Lượng chất thải sinh hoạt được đem đi chôn lấp giảm xuống rõ
rệt và năm 2004 là 0,38 triệu tấn. Cho đến thời điểm hiện nay, lần đầu tiên lượng
chất thải được đưa đi chôn lấp chỉ chiếm gần 10%.
+ Xử lý sinh học: Trong năm 2004, 10,4% (0,43 triệu tấn) chất thải sinh hoạt
phải qua quá trình xử lý sinh học, tăng 7,7% kể từ năm 2003. Lượng chất thải được
phân loại tại nguồn gồm: 0,11 triệu tấn chất thải thực phẩm, 0,14 triệu tấn chất thải
xanh (ở các công viên và các khu vườn), 18.000 tấn chất thải sinh hoạt được tách tại
nguồn và ước tính có 70.000 tấn chất thải sinh hoạt được ủ phân tại nhà.[22]
Tại Trung Quốc
Ước tính khoảng 20% chất thải rắn đô thị phát sinh ở Trung Quốc được
thu gom và xử lý phù hợp, mặc dù hàng năm chính phủ đầu tư khoảng 30 tỷ
nhân dân tệ (3,7 tỷ USD) cho quản lý chất thải rắn. Số chất thải không thu
gom được đổ vào các sông thành đống, đốt hoặc xử lý không theo quy định.
Tuy nhiên, trong 10 năm qua Trung Quốc đã có những cải thiện đáng kể trong
lĩnh vực quản lý chất thải. Hầu hết các thành phố lớn đều chuyển sang chôn
lấp hợp vệ sinh và sử dụng nhiều hơn các công nghệ thiêu đốt. Vào những
năm 90 WB thông báo các bãi chôn lấp thiếu quản lý là vấn đề nan giải gay
gắt nhất của Trung Quốc, do thiếu kiểm soát việc thoát khí mêtan và các khí
nhà kính khác, các hoá chất gây ung thư, nước rác độc hại thấm vào nguồn
nước ngầm và những mối nguy hiểm về sức khoẻ và môi trường khác.

11


Việc phân loại và tái chế chất thải rắn ở Trung Quốc được tiến hành
bằng lao động thủ công. Một Báo cáo môi trường chính thức của Trung Quốc
cho biết khoảng 1,3 triệu người làm nghề thu gom chất thải, bao gồm những
người quét dọn đường phố do chính quyền địa phương trả lương khoảng 2,5
triệu người sống bằng nghề bới rác, phần lớn là những người nghèo. ở Trung

băng tải, sàng quay)
Chất vô cơ

Phân loại theo trọng
lượng

Phân loại sản phẩm
để tái chế

Phối trộn N,P,K và các
nguyên tố khác

Chôn lấp chất trơ
Ủ phân bón (nhiệt độ từ 30400C), thời gian 5-10 ngày

Đóng bao tiêu thụ

Hình 2.2. Công nghệ xử lý chất thải làm phân bón của Trung Quốc.
2.3.2. Tình hình quản lý, xử lý chất thải rắn tại Việt Nam
Tình hình quản lý chất thải rắn
Ở Việt Nam hiện nay, hệ thống quản lý chất thải từ trung ương đến các
tỉnh thành phố chưa hoàn thiện và chưa nhất quán. Ở cấp thành phố và thị xã,
mỗi nơi có hệ thống quản lý khác nhau, các thị trấn hầu như không có. Những
năm gần đây tổ chức quản lý chất thải rắn sinh hoạt ở các địa phương đã được
chú trọng hơn trước, nhưng về cơ bản hình thức và nội dung vẫn chậm đổi
mới. Tuy đã có luật bảo vệ môi trường nhưng còn thiếu các văn bản pháp quy
quy định về quản lý đô thị nói chung và quản lý chất thải rắn sinh hoạt nói
13



(Nguồn tạo chất thải rắn)

Hình 2.3. Hệ thống quản lý CTR sinh hoạt ở các đô thị lớn ở Việt Nam
Một nghiên cứu gần đây của bộ Tài nguyên Môi trường cho thấy tổng
lương chất thải rắn phát sinh ở nước ta năm 2007 ước đạt 17 triệu tấn, trong
đó riêng chất thải rắn sinh hoạt tại 69 đô thị được điều tra khảo sát đã đạt 6,5
triệu tấn. Lượng chất thải rắn còn lại tập trung ở các xã, thị trấn thuộc huyện.
Với lượng chất thải rắn sinh hoạt gia tăng nhanh chóng, nguy cơ gây ô nhiễm
môi trường và tác động xấu đến môi trường đang trở thành một vấn đề cấp
bách của công tác bảo vệ môi trường nước ta hiện nay.
Về quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại các đô thị, việc thu gom và xử lý
chất thải rắn đô thị thường do công ty Môi trường đô thị đảm nhận. Tỉ lệ thu
gom chất thải rắn sinh hoạt trung bình ở nước ta tuy đã tăng lên xong vẫn còn
ở mức thấp. Trong giai đoạn 2002 – 2003 , tỉ lệ thu gom rác thải trong cả
14


nước từ 65% - 71%. Năm 2003 tỉ lệ thu gom giao động từ 45% (Long An)
đến 95% (Huế). Năm 2004 tỉ lệ này là 72%. Năm 2008, tỉ lệ thu gom chất thải
rắn sinh hoạt trên cả nước trung bình đạt 80%. Trong khi Hà Nội, Hưng Yên,
Bạc Liêu, Vĩnh Phúc… có tỉ lệ thu gom đạt hơn 90% thì Lai Châu, Hà
Giang… chỉ thu gom được dưới 40%.
Rác thải tạo ra chủ yếu được xử lý bằng phương pháp chôn lấp. Tuy
nhiên, phần lớn các bãi chôn lấp của Việt Nam chưa đạt tiêu chuẩn kỹ thuật
vệ sinh môi trường. Thêm vào đó lại không có đủ phương tiện kĩ thuật thích
hợp cho việc thu gom và xử lý rác thải nguy hại, công nghiệp và y tế.
CTR sinh hoạt có khối lượng lớn và đòi hỏi xử lý tức thì, không để tồn
đọng là trở ngại đầu tiên. Thêm vào đó, lượng rác thải tạo ra lại được trải rộng
và đều khắp nơi có cư dân sinh sống, việc thu gom khó đạt hiệu quả cao khi ý
thức và trách nhiệm của con người với môi trường sống còn thấp.

nghiệp cao còn áp dụng công nghệ xử lý bụi trong khí thải (lọc bụi) như công
nghệ Xiclon, công nghệ lọc bụi tĩnh điện (ESP) ở Nhà máy Nhiệt điện Uông
Bí. Công nghệ xử lý nước rác của các bãi chôn lấp rác, công nghệ xử lý nước
thải tập trung của các đô thị, khu công nghiệp và công nghệ xử lý khí thải SO 2
công nghiệp cũng được áp dụng.[1].
Một số phương pháp xử lý rác thải rắn
Phân loại và xử lý cơ học
Đây là khâu ban đầu không thể thiếu trong quy trình xử lý chất thải.
Biện pháp này sẽ làm tăng hiệu quả tái chế và xử lý ở các bước tiếp theo. Các
công nghệ dùng để phân loại, xử lý cơ học chất thải bao gồm: cắt, nghiền,
sàng, tuyển từ, truyền khí nén….Ví dụ: các loại chất thải có kích thước lớn và
thành phần khác nhau phải được phân loại ngay khi tiếp nhận. Các CTR chứa
các chất độc hại (như muối xyanua rắn) cần phải được đập thành những hạt
nhỏ trước khi được hoà tan để xử lý hoá học. Các chất thải hữu cơ dạng rắn
có kích thước lớn phải được băm và nghiền nhỏ đến kích thước nhất định, rồi
trộn với các chất thải hữu cơ khác để đốt.[1]
16


Công nghệ thiêu đốt
Đốt là quá trình oxy hoá chất thải ở nhiệt độ cao. Công nghệ này rất phù
hợp để xử lý CTR công nghiệp và chất thải nguy hại hữu cơ như cao su, nhựa,
giấy, da, cặn dầu, dung môi, thuốc bảo vệ thực vật và đặc biệt là chất thải y tế
trong những lò đốt chuyên dụng hoặc công nghiệp như lò nung xi măng.
Công nghệ này có nhiều ưu điểm: khả năng tận dụng nhiệt, xử lý triệt
để khối lượng, sạch sẽ, không tốn đất để chôn lấp nhưng cũng có một số hạn
chế như chi phí đầu tư, vận hành, xử lý khí thải lớn, dễ tạo ra các sản phẩm
phụ nguy hiểm.[1]
Công nghệ xử lý hoá - lý
Công nghệ này là sử dụng các quá trình biến đổi vật lý, hoá học để làm

Chế biến phân hữu cơ compost và tận thu
Chế biến phân compost là một hình thức tái chế rất hữu hiệu các chất
thải hữu cơ có tiềm năng sản xuất các loại sản phẩm làm màu mỡ đất, không
gây ô nhiễm môi trường, giúp tận thu và làm tăng tỉ lệ thu gom các loại chất
thải có thể tái chế được. Chính vì vậy phương pháp này góp phần quản lý tốt
hơn rác thải sinh hoạt. Tuy nhiên, trên thực tế phương pháp này đã không
thành công ở nước ta vì: đòi hỏi rác phải được phân loại chuẩn xác trước khi
đưa vào hố ủ; có phát sinh nước thải và khí thải, đặc biệt mùi hôi trong quả
trình ủ; tác dụng của phân rác không rõ ràng và không nhanh như phân hóa
học nên không được thị trường ưa chuộng. Nước ta hiện có hơn 10 nhà máy
chế biến rác thải hữu cơ thành phân bón vi sinh. Các nhà máy này có quy mô
và công suất nhỏ. Đó là nhà máy Cầu Diễn (Hà Nội) với công suất xử lý
50.000 tấn rác/năm (công nghệ Tây Ban Nha); nhà máy xử lý rác thải Nam
Định với công suất xử lý 250 tấn/ngày (công nghệ Pháp); công nghệ Dano –
Đan Mạch tại Hoóc Môn, TP Hồ Chí Minh công suất 240 tấn/ngày… Ngoài
ra, một số đô thị khác như Việt Trì, Vinh, Sơn Tây, Huế… cũng có nhà máy
xử lý rác thành phân bón, nhựa tái sinh, vật liệu xây dựng hoàn toàn do Việt
Nam tự nghiên cứu và chế tạo.
18


Chất lượng phân bón của nhà máy Cầu Diễn (Hà Nội) do Tây Ban Nha
đầu tư được đánh giá tốt nhưng phân compost vẫn có lẫn các mảnh vụn thủy
tinh, kim loại do đó khó tiêu thụ. Vì vậy việc phân loại rác thải là rất cần thiết
để tăng chất lượng của phân hữu cơ giảm thành phần tạp chất.[1]
Tại Thành phố Hà Nội đã ban hành Chương trình hành động về công
tác bảo vệ môi trường Thủ đô thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Chương trình xác định một số chỉ tiêu về môi trường đến năm 2010,
trong đó có chỉ tiêu 100% rác thải sinh hoạt đô thị được thu gom, vận chuyển,
xử lý hợp vệ sinh và 40% được tái chế. Chương trình này nhằm ngăn ngừa,

(tấn/ngày)

Cầu Diễn, Hà
Nội (1)

Thành
Việt

140

Thời gian
bắt đầu hoạt
động

Nguồn chất

1992

Chất thải từ

Đang hoạt động, bán

Mở rộng

các khu chợ,

3 loại sản phẩm có

2002



lượng

khác

nhau, giá khác nhau.
Phúc Hoà –
Tân Thành –

30

Không rõ

Không rõ

Đang hoạt động

Bà Rịa Vũng
Tàu (2)
Nguồn: (1) - Nguyễn Thị Kim Thái 2004 – Báo cáo tư vấn cho Ngân hàng Thế giới
(2) - Dự án Vệ sinh cho 3 thành phố do Ngân hàng Thế giới tài trợ.

2.4. 3R và phân loại rác tại nguồn
2.4.1. 3R là gì?
3R là từ viết tắt của 3 chữ cái đầu trong tiếng Anh: Reduce – Reuse –
Recycle.
Reduce (Giảm thiểu): Giảm thiểu lượng rác thông qua việc thay đổi lối
sống hoặc/và cách tiêu dùng, cải tiến các quy trình sản xuất, mua bán sạch…
Ví dụ: Sử dụng làn hay túi vải để đi chợ thay cho túi nlon để nhằm giảm
lượng rác thải phát sinh từ túi nilon…

Sự thành công của công tác PLRTN và tái chế chất thải là kết quả của 3
yếu tố: một là quá trình vận động, tuyên truyền, cưỡng chế người dân, hai là
22


sự đầu tư của Nhà nước và xã hội vào các cơ sở tái chế rác thải, ba là trình độ
phát triển của xã hội cả về mặt kinh tế và nhận thức, thiếu một trong 3 yêú tố
này thì việc PLRTN và tái chế sẽ rất khó thành công.
Hiện trạng công tác phân loại rác tại nguồn
Thế giới
Ở các nước phát triển ngành công nghiệp tái chế chất thải rất được
chính phủ chú trọng đầu tư, đạt được hhiệu quả cao về kinh tế và môi trường.
Tại các quốc gia như Đan Mạch, Anh, Hà Lan, Đức…việc quản lí chất
thải rắn được thực hiện rất chặt chẽ, công tác phân loại và thu gom rác đã
thành nề nếp và người dân thức hiện rất nghiêm quy định này.
Nhật Bản có 37 đạo luật về bảo vệ môi trường trong đó có 7 đạo luật về
quản lí và tái chế chất thải rắn.Việc phân loại tại nguồn được thực hiện từ
những năm 1970. Rác được phân thành 3 dòng là rác dễ phân hủy để sản xuất
phân compost, rác không cháy được (vỏ chai, hộp..) để tái chế, và rác cháy
được để đưa đến nhà máy đốt rác và thu hồi năng lượng. Đối với rác có kích
thước lớn như tủ lạnh, tivi, bàn ghế… phải đăng kí và đúng ngày quy định đặt
trước cổng có xe của bộ phận chuyên trách đến chở đi. Điển hình về phân loại
rác triệt để là thành phố Minamata thuộc tỉnh Kumamoto ở đây rác được phân
thành 22 loại khác nhau rất thuận tiện cho việc tái chế.
Ở Hàn Quốc, rác hữu cơ nhà bếp một phần dùng làm giá thể trồng nấm,
phần lớn hơn được chôn lấp có kiểm soát để thu hồi khí biogas cung cấp cho
phát điện, sau khi rác ở bãi chôn phân hủy hết tiến hành khai thác mùn bãi
chôn làm phân bón và tái chôn lấp cho chu kì sau.
Như vậy, tại các nước phát triển PLRTN đã diễn ra trên 30 năm và cơ
bản đã thành công ở các mức độ khác nhau. Ở mức độ thấp, rác được phân

6 - 2009 ở hơn 350 hộ dân tại 13/15 tuyến thu gom rác cho thấy, chỉ có 33%
hộ phân loại đúng hướng dẫn, 50% thực hiện không đúng và sử dụng thùng
rác, túi PE vào việc khác và 17% hộ dân không thực hiện.
24


Hầu hết các dự án này hầu hết chỉ mang tính phát động phong trào, khi
dự án kết thúc thì việc phân loại rác cũng chấm dứt.
Hà Nội
Từ năm 2002 URENCO đã thí điểm PLRTN tại phường Phan Chu
Trinh. Các hộ gia đình được phát 2 túi: túi đen đựng rác hữu cơ, túi đỏ đựng
rác vô cơ. Vì là dự án đầu tiên nên còn nhiều hạn chế: người dân chưa tạo
được thói quen, giờ thu gom rác không cố định, rác không được thu gom ngay
lại bị những người bới rác bới lên gây lộn xộn, mất vệ sinh.
Dự án “sáng kiến 3R” tại Hà Nội bắt đầu triển khai thí điểm từ tháng 11
- 2006 với tổng mức tài trợ từ JICA là 3 triệu USD. Dự án đã được triển khai
thí điểm tại 4 phường thí điểm tại thành phố Hà Nội là phường Phan Chu
Trinh, Nguyễn Du, Thành Công và Láng Hạ. Sau 3 năm triển khai, dự án đã
có được những kết quả khả quan, cho thấy khả năng có thể mở rộng hoạt
động 3R ra toàn thành phố Hà Nội và các địa bàn khác trong cả nước.
Tổng cộng có khoảng 18.000 hộ gia đình đã tham gia vào dự án 3R tại
bốn phường thí điểm. Tính đến tháng 9/2009, đã có hơn 250 tình nguyện viên
tham gia các Câu lạc bộ Tình nguyện viên 3R, triển khai các hoạt động thông
tin tuyên truyền rộng khắp nhằm nâng cao ý thức người dân như đội tuyên
truyền 3R lưu động, cuộc thi kiểm tra thân thiện, giáo dục 3R tại trường học,
… Các hoạt động đều nhằm mục đích nhằm gắn kết các bên liên quan: đơn vị
thu gom - người dân thải rác - nhà máy xử lý rác - nông dân sử dụng phân bón
chế biến từ rác.
Tại địa bàn thí điểm, lượng rác thải sinh hoạt từ các hộ gia đình đã
giảm bình quân từ 31,2 - 45,1% tùy từng phường, đạt mục tiêu giảm thiểu


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status