Lạm phát trong nền kinh tế thị trường. - Pdf 32

Đề án môn học
ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH
TIỀN TỆ
ĐỀ TÀI : LẠM PHÁT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
A. Lời mở đầu .
Trong lịch sử và hiện tại, lạm phát luôn là một vấn đề nóng bỏng với từng
nước dù nước đó là một nước có nền kinh tế phát triển hay một nước có
nền kinh tế kém phát triển, nó luôn tồn tại song song với nền kinh tế thị
trường và được xem như là một vấn đề lớn đối với tất cả các nước ,khi tồn
tại nó trong nền kinh tế nó ảnh hưởng rất lớn đến tất cả các mặt của một
nên kinh tế như sự ổn định của một nền kinh tế các vấn đề khác như tăng
trưởng , thất nghiệp ổn định chính trị xã hội …..và đã có rất nhiều hậu quả
xấu do lạm phát gây ra . Trong lịch sư đã chứng kiến những “cơn” lạm
phát ,tiêu biểu như siêu lạm phát ở Đức ( 1921-1923 ) các nước mỹ la tinh
(1980-1990 ) siêu lạm phát ở việt nam cuối thập kỉ 80 …Những hậu quả mà
lạm phát cao gây ra cho nền kinh tế các nước đã chịu là rất to lớn nên chính
phủ các nước luôn luôn tìm mọi cách để khống chế lạm phát ở mức có thể
kiểm soát được .Các nhà kinh tế học các nhà kinh tế học đã tìm rất nhiều
chứng cứ biện pháp, giải pháp đê luận giải và kiểm soát lạm phát ở mức có
thể để giữ cho nền kinh tế ổn định và có thể phát triển .Và việc kiểm soát
lạm phát như thế nào là vấn đề hàng đầu trong các cuộc tranh luận về chính
sách kinh tế .
..Vì vậy việc nghiên cứu về lạm phát luôn luôn được quan tâm hàng đầu
trong nền kinh tế thị trường ..để cho nó phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của nền kinh tế .
Trong đề án này chúng ta sẽ nghiên cứu về vấn đề lạm phát thực chất nó
như thế nào khi xãy ra trong nền kinh tế thì nó sẽ diễn biến trong nền kinh
tế với hình thái ra sao nó sẽ tác động đến những gì trong nền kinh tế và
điều đặc biệt quan trọng là khi tồn tại nó trong nền kinh tế thị trường thì do
những nguyên nhân gì và từ đó chúng ta sẽ có những giải pháp để khắc
phục tình trạng đó và dự đoán cũng như có những dự trù trước cho những

tiền tệ càng nhỏ,tiền bị mất giá trầm trọng .Do vậy chúng ta lại có thể hiểu
lạm phát theo cách thứ hai là tình trạng mất giá của tiền tệ . Ví dụ: tháng
1/1922 một cốc nước ngọt ở Đức có giá là 1 DM thế nhưng đến tháng
20/1923 1 cốc nước ngọt như vậy có giá là 192 triệu DM như vậy ngày
tháng 1/1922 giá cả của 1 DM là 1/P =1/1 hàng hóa (cốc nước ngọt ) và
tháng 10/1923 giá của một DM là 1/192000000 (cốc nước ngọt ) .Gía trị
của DM hay sức trao đổi thành nước ngọt giảm xuống một cách khủng
khiếp trong vòng 22 tháng. Như vậy có thể hiểu một cách khái quát rằng :
lạm phát là sự giảm giá trị hay sức trao đổi thành hàng hóa khác của tiền.
Vậy để làm rõ hơn thực chất lạm phát là gì ? Trong lịch sử đã có rất nhiều
quan điểm về thực chất lạm phát là gì ,để có được cái nhìn toàn diện hơn về
lạm phát ta xem xét một số quan điểm sau :
a. Quan điểm về lạm phát
- Quan điểm của Mác về lạm phát : Quan điểm của Các Mác : Theo quan
điểm của các nhà kinh tế học cổ điển và cận đại thì lạm phát dưới chủ nghĩa
tư bản là sự tràn ngập trên các kênh và các luồng những tờ giấy bạc thừa
gây nên sự tăng lên của giá cả của các mặt hàng trong nền kinh tế ,đại biểu
cho quan điểm này là Mac, Ông quan niệm rằng lạm phát là do nhà nước tư
bản tạo ra để nhằm bóc lột giai cấp công nhân ,lạm phát hoàn toàn mang
tính chất chính trị , như vậy theo ông muốn loại bỏ hoàn toàn lạm phát thì
phải tiêu diệt nhà nước tư bản vì chính nhà nước tư bản là gốc rể sinh ra
lạm phát nhưng trên thực tế lại cho thấy lại hoàn toàn khác ở các nước
CNXH cũ thì lạm phát vẫn tồn tại như các nước đông Âu ,Liên xô cũ ,việt
nam …do vậy có thể chắc chắn mà khắng định rằng lạm phát không mang
tính chích trị mà lạm phát là một hiện tượng kinh tế ,muốn tìm hiểu về lạm
phát phải quan sát dưới góc độ và các phương pháp phân tích kinh tế phù
hợp ,đây là một quan điểm không toàn diện về lạm phát vì Mác không xem
xét lạm phát dưới góc độ là một hiện tượng kinh tế
- Quan điểm của phái tiền tệ (Milton Friedman): thứ nhất chúng ta
hãy nhìn kết quả của việc cung tiền tệ tăng lên và kéo dài , khi sử dụng cách

0 Yn Y
Các nhà tiền tệ có tin rằng một mức giá cả tăng kéo dài có thể do bất kì
nguyên nhân nào khác ngoài việc tăng cung tiền tệ gây nên không ? Câu trả
lời là “không” .Trong cách phân tích của phái tiền tệ cung tiền tệ được coi
là nguyên nhân duy nhất làm di chuyển đường tổng cầu ,do vậy không có
cái gì nữa có thể làm cho nền kinh tế chuyển từ điểm 1 sang 2 ,3 và xa hơn
nữa. Cách phân tích của phái tiền tệ chỉ ra rằng lạm phát nhanh có thể do sự
tăng cao của cung tiền tệ thúc đẩy .
- Quan điểm của phái Keynes : cách phân tích của phái Keynes chỉ
ra rằng cung tiền tệ tăng kéo dài sẽ có ảnh hưởng sẽ có ảnh hưởng như nhau
đối với đường tổng cầu và đường tổng cung mà chúng ta thấy trong hình 1;
đường tổng cầu sẽ dichuyển sang phải và đường tổng cung sẽ di chuyển vào
,giống như kết luận của phái tiền tệ việc tăng nhanh cung tiền tệ sẽ làm cho
mức giá tăng kéo dài với tỷ lệ cao ,do vậy gây nên lạm phát .
Chính sách tài chính tự nó có thể gây nên lạm phát không ? để xem xét vấn
đề này chúng ta hãy xem hình 2 (minh họa ảnh hưởng của việc tăng thường
xuyên từng đợt chi tiêu của chính phủ- chẳng hạn như từ 500 tỷ VND lên
600 tỷ VND) đối với tổng sản phẩm và mức giá cả . Lúc đầu chúng ta đang
ở điểm 1,tại đó sản phẩm ở mức tự nhiên và mức giá cả P1. Tăng lên trong
chi tiêu của chính phủ di chuyển đường tổng cầu ra đến AD2 và chúng ta
chúng ta chuyển đến điểm 1’ tại đó sản phẩm ở trên mức tự nhiên tại Y1
.Đường tổng cung sẽ bắt đầu di chuyển vào ,cuối cùng đạt đến điểm AS2
tại đó nó cắt đường tổng cầu AD2 tại điểm 2 ở đó sản phẩm lại ở mức tự
nhiên và mức giá tăng lên đến P2
P AD2 AS2
AD1 AS1
Hình2 P2 2
1’
P1 1


trường phái kinh tế chúng ta có thể hiểu được thế nào là lạm phát và bản
chất kinh tế của lạm phát một cách tương đối đầy đủ . Như theo
R.Jackman.C.Muley và J.Trevithich thì “Lạm phát có thể được định nghĩa
đúng nhất là xu hướng duy trì mức giá chung cao”. Hoặc “lạm phát là một
quá trình tăng giá liên tục ,tức là mức giá chung tăng lên hoặc là quá trình
đồng tiền liên tục giảm giá “…….
b. Phân loại lạm phát : Ta có thể phân loại lạm phát về theo mặt
định tính hoặc định lượng . Về mặt định tính chúng ta sẽ chia lạm phát
thành : lạm phát thuần túy ,lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng
….nhưng trong thực tế chúng ta thường hay sử dụng đó là cách phân loại
lạm phát trên mặt định lượng là chủ yếu …Chúng ta sẽ tiếp cận lạm phát
trên mặt định lượng
Dựa trên độ lớn nhỏ của tỉ lệ % lạm phát tính trên năm người ta chia lạm
phát tính trên năm ,người ta chia lạm phát làm các loại :
- lạm phát một chữ số (lạm phát vùa phải): đây là loại lạm phát nhỏ
hơn 10% một năm ,nếu nền kinh tế đang trong tình trạng lạm phát ở mức
này thì có thể nói đây là một nền kinh tế khá ổn định . Ở mức lạm phát này
không những nó không ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế mà nó còn ảnh
hưởng một cách tích cực nhiều hơn ,nó đảm bảo công ăn việc làm ,duy trì
lực lượng lao động và tình trạng thất nghiệp , kích thích các doanh nghiệp
sản xuất với mức sản lượng lớn hơn . Đối với loại này thì tuỳ theo chiến
lược và chiến thuật phát triển kinh tế mỗi thời kỳ mà các Chính phủ có thể
chủ động định hướng mức khống chế trên cơ sở duy trì một tỷ lệ lạm phát là
bao nhiêu để gắn với một số mục tiêu kinh tế khác: Kích thích tăng trưởng
kinh tế, tăng cường xuất khẩu và giảm tỷ lệ thất nghiệp trong các năm tài
khoá nhất định
- Lạm phát hai chữ số (lạm phát phi mã ) : khi giá cả bắt đầu tăng đến
hai chữ số mỗi năm , Đây là tỷ lệ lạm phát vượt ra ngoài khả năng kiểm
soát của NHTW thì lạm phát sẽ trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập
thực tế ,nó sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ và để lại những hậu quả xấu cho nền

hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà
nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm :
Trong thực tế đa số ở các nước trên thế giới người ta thường sử dụng hai chỉ
số chủ yếu :đó chính là chỉ số giá tiêu dùng và hệ số điều chỉnh GDP :
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là chỉ số quan trọng mà một số nước thường lấy
để đo tỷ lệ lạm phát và được xem là để đo lường chi phí liên quan đến rổ
hàng hóa và dịch vụ cụ thể được người tiêu dùng mua . Chỉ số giá tiêu dùng
(CPI ) được tính theo công thức sau
CPI = ( ∑ Pit.Qio) / ( ∑ Pio.Qio)
Trong đó : Pit – là giá hàng hóa sản phẩm i trong giai đoạn t
Pio - là giá hàng hóa sản phẩm i trong giai đoạn cơ sở
Qio – là tổng lượng hàng hóa sản phẩm i ( i=1 đến n ). Trong
giai đoạn cơ sở( rổ hàng hóa được ấn định đối với một năm cơ sở và Q là
trọng số ,n là tổng sản phẩm ).
Cách tính CPI không phải là cộng các giá cả lại và chia cho tổng khối
lượng sản phẩm mà là cân nhắc từng mặt hàng theo tầm quan trọng của nó
trong nền kinh tế
- Chỉ số giảm phát GDP được coi là chỉ số phản ánh bình quân giá của tất
cả các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nước . Do vậy ,chỉ số này
có thể nói là toàn diện hơn chỉ số giá GDP vì nó bao quát hết tất cả các loại
hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế .Chỉ số này được dùng để tính giảm
phát GDP danh nghĩa và GDP thực tế . Có thể tính chỉ số giảm phát GDP
theo công thức sau :
LGDP = GDP(danh nghĩa) / GDP ( thực tế ) = ( ∑ Pit.
Qit ) / ∑ Pio.Qit )
10
Đề án môn học
Trong đó : LGDP – là chỉ số giảm phát GDP (chỉ số Paasche)
Qit - là lượng hàng hóa sản phẩm i ( i=1 đến n) trong giai
đoạn t

sốc cầu ,có thể là trong nước hay quốc tế (Ví dụ : như chiến lược phát triển
kinh tế của một nước chẳng hạn làm cho cầu đầu tư tăng lên một cách đột
biến ,làm đường tổng cầu của nền kinh tế dịch sang phải (từ AD1 sang AD2
) ,sau một thời gian làm cho mức cân bằng của nền kinh tế chuyển sang một
trạng thái mới ( được giả thiết là nền kinh tế đang ở mức toàn dụng nhân
công do đó không có sự thay đổi của tổng cung đường tổng cung không
thay đổi ) ,tại đó mức sản lượng của nền kinh tế tăng lên mức Q2 ( Q2 lớn
hơn Q1) và mức giá chung của nền kinh tế lên đến mức P2( P2 lớn hơn P1)
…Nhưng mà trong thực tế thì khi cầu tăng sẽ làm cho cung tăng một lượng
chút ít ,sự gia tăng của cung nhỏ hơn rất nhiều so với sự gia tăng của cầu do
những giới hạn về nguồn lực, con người (Gía tăng làm các hãng tăng cường
sản xuất để thu lợi nhuận lớn hơn làm cho đường tổng cung của nền kinh tế
dịch chuyển sang phải ( từ AS1 sang AS2 ) .. lạm phát do cầu kéo sẽ làm
mức sản lượng của nền kinh tế tăng lên và mức giá chung của nền kinh tế
cũng tăng lên theo đó ……Đây là theo kinh tế học của Keynes về phân tích
tổng cung ,tổng cầu ( AD-AS ).
12
Đề án môn học

p
AS1 AS2
P2
P1 AD2

AD1
0 Q1 Q2 Q3 Q
Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng
cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để
đáp ứng. Do đó có lạm phát.
• Hiện tượng chi phí đẩy : Chi phí của sản xuất là yếu tố cấu thành


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status