Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện hệ thống chính sách An Sinh Xa Hoi cho người có hoàn cảnh khó khăn ở tỉnh thái nguyên trong thời gian tới - Pdf 34

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế, bên cạnh việc phát huy mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, Đảng và Nhà
nước cũng rất quan tâm đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH
nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Hệ thống ASXH góp phần
quan trọng thực hiện công bằng xã hội; giúp người dân chống trọi với các
rủi ro trong nền kinh tế thị trường; tạo ra cho mọi người cơ hội vươn lên
trong xã hội.
Sau những năm đổi mới, kinh tế nước ta có bước phát triển đáng kể.
Bên cạnh đó, đà tăng trưởng và hành trình phát triển của chúng ta đang này
càng có những dấu hiệu khó khăn: phân hóa xã hội ngày một gia tăng,
khoảng cách thu nhập và điều kiện sống giữa các vùng miền còn chênh lệch
nhiều, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, người nông dân và các ngành
nghề khác; thất nghiệp vẫn ở tỷ lệ cao; môi trường bị phá hủy trầm trọng; tình
trạng nghèo và tái nghèo vẫn chưa được giải quyết triệt để, sự phân hóa xã hội
ngày càng rõ rệt và phức tạp. Người có hoàn cảnh khó khăn là đối tượng còn
chịu nhiều thiệt thòi và gặp nhiều rủi ro trong xã hội.Vì họ có thu nhập thấp và
không ổn định, đời sống kinh tế khó khăn. Trong công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước từ trước tới nay, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách
quan tâm tới đối tượng người có hoàn cảnh khó khăn trong xã hội. Trong đó
phải kể tới hệ thống chính sách về ASXH đối với người có hoàn cảnh khó
khăn, tuy nhiên vẫn chưa giải quyết được vấn đề một cách triệt để.
Những năm vừa qua, tỉnh Thái Nguyên đã đạt được nhiều thành tựu về
kinh tế, đời sống của nhân dân có bước được cải thiện. Tuy nhiên với đặc thù
là tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, trình độ dân trí của một
số vùng còn chưa cao đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Chính sách
ASXH đã được hình thành và triển khai nhưng chưa thực sự phát huy hết tính
8




Nội, 2011; “Yếu tố xã hội trong nền kinh tế thị trường xã hội” của Mai Ngọc
Cường.NXB. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005; “Quản lý sự phát triển xã hội
theo nguyên tắc tiến bộ và công bằng” của Phạm Xuân Nam. NXB. CTQG,
Hà Nội, 2001; “Bình đẳng xã hội – vấn đề chủ yếu của tư tưởng xã hội chủ
nghĩa” của Mai Ngọc Cường, Nxb của Phạm Xuân Nam, Nxb. CTQG, Hà
Nội, 2001; “Nghiên cứu chính sách xã hội nông thôn Việt Nam” của Bùi Ngọc
Thanh, Nguyễn Hữu Dũng, Phạm Đỗ Nhật Tân. Nx.CTQG, Hà Nội,1996;
“Một số vấn đề phúc lợi xã hội của Nhật Bản và Việt Nam” của Dương Phú
Hiệp, Nguyễn Duy Dũng, Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản, Hà Nội,1996;
“Kinh tế thị trường và vấn đề phân hóa giàu nghèo các vùng dân tộc và miền
núi” của Hoàng Văn Hoa. Nxb. CTQG, Hà Nội, 1999...
- Các nghiên cứu trên các tạp chí: “ASXH ở nước ta – một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” của PGS, TS. Vũ Văn Phúc. Tạp chí Cộng sản, số 4/2012;
“Chính sách ASXH với đảm bảo định hướng XHCN trong phát triển KTTT ở
Việt Nam hiện nay” Hà Thị Thùy Dương, Tạp chí sinh hoạt Lý luận, số 6
(109) 2011; “Kết hợp giữa phát triển kinh tế với việc giải quyết ASXH – qua
thực tiễn ở nước ta”, Ths. Phan Văn Trinh. Tạp chí Sinh hoạt Lý luận, số 6
(109) 2011; “Phát triển hệ thống ASXH đối với nông dân hiện nay”, Mai
Ngọc Anh. Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 364, tháng 9/2008; “Nghiên cứu hệ
thống chính sách xã hội nông thôn Cộng hòa Liên bang Đức và kiến nghị đối
với việc xây dựng hệ thống an ninh xã hội cho nông dân Việt Nam” Mai Ngọc
Anh. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số tháng 10/2006; “Hoàn thiện hệ thống
ASXH trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Nguyễn Hữu
Dũng, Tạp chí Kính tế và phát triển, 1/2005; “Chính sách xã hội trong nền
KTTT xã hội của CHLB Đức và khả năng vận dụng ở Việt Nam”, Nguyễn
Hoàng Mai; Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 3/2005; “Mối quan hệ giữa
chuyển dịch cơ cấu kinh tế với xóa đói giảm nghèo và bất bình đẳng”, Lê
Huy Đức; Tạp chí Kinh tế và dự báo, 2/2004; “Nghịch lý trong tăng trưởng
10

11


hoàn cảnh khó khăn. Chỉ có một vài công trình nghiên cứu là khóa luận tốt
nghiệp về chính sách xóa đói giảm nghèo. Trong đó có đề cập đến ASXH nhưng
ít và chung chung, chưa đi vào cụ thể, chi tiết và đưa ra giải pháp. Vì vậy nghiên
cứu Chính sách ASXH cho người có hoàn cảnh khó khăn tại tỉnh Thái nguyên
hiện nay là rất cần thiết.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về chính sách ASXH và đánh giá
đúng thực trạng việc thực hiện chính sách ASXH đối với người có hoàn cảnh
khó khăn ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay, luận văn đề xuất quan điểm, giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện hệ thống chính sách ASXH cho người
có hoàn cảnh khó khăn ở tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là việc thực hiện chính sách
ASXH đối với những người có hoàn cảnh khó khăn tại tỉnh Thái Nguyên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu việc thực hiện chính sách ASXH đối với những
người có hoàn cảnh khó khăn ở tỉnh Thái nguyên trong thời gian từ 2006
(Đại hội X) đến nay.
5. Câu hỏi nghiên cứu
1. Thực trạng thực hiện chính sách ASXH cho người có hoàn cảnh khó
khăn tại tỉnh Thái nguyên hiện nay như thế nào?
2. Làm gì và làm thế nào để nâng cao hiệu quả thực hiện hệ thống chính
sách ASXH, nâng cao đời sống cho người có hoàn cảnh khó khăn tại tỉnh
Thái Nguyên trong những năm tới?
6. Giả thuyết nghiên cứu
- Các chính sách ASXH cho người có hoàn cảnh khó khăn tại tỉnh


13


8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo luận văn
được trình bày trong 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về chính sách ASXH và chính sách ASXH đối
với người có hoàn cảnh khó khăn.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách anh sinh xã hội đối với
người có hoàn cảnh khó khăn ở tỉnh Thái Nguyên.
Chương 3. Quan điểm, giải pháp thực hiện tốt chính sách ASXH đối
với người có hoàn cảnh khó khăn trong thời gian tới.

14


CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ
HỘI VÀ CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI CÓ
HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN
1.1. Khái quát chung về ASXH, chính sách ASXH
1.1.1. Khái niệm ASXH
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở… Để
thoả mãn nhu cầu tối thiểu này, con người phải lao động làm ra những sản
phẩm cần thiết. Của cải xã hội càng nhiều, mức độ thoả mãn nhu cầu càng
cao, nghĩa là việc thoả mãn nhu cầu phụ thuộc vào khả năng lao động của
con người. Tuy nhiên, trong suốt cuộc đời, không phải khi nào con người
cũng có thể lao động tạo ra được thu nhập. Trái lại, có rất nhiều trường
hợp khó khăn, bất hạnh, rủi ro xảy ra làm cho con người bị giảm, mất thu
nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác, chẳng hạn, bị bất ngờ ốm đau, tai

ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Đến cuối những năm 1880, ASXH (lúc này
là BHXH) đã mở ra hướng mới. Sự tham gia là bắt buộc và không chỉ người
lao động đóng góp mà giới chủ và Nhà nước cũng phải thực hiện nghĩa vụ của
mình (cơ chế ba bên). Tính chất đoàn kết và san sẻ lúc này được thể hiện rõ
nét: mọi người, không phân biệt già - trẻ, nam - nữ, người khoẻ - người yếu
mà tất cả đều phải tham gia đóng góp.
Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ
Latinh, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau
chiến tranh thế giới thứ hai, ASXH đã lan rộng sang các nước giành được độc
lập ở châu á, châu Phi và vùng Caribê. Ngoài BHXH, các hình thức truyền
thống về tương tế, cứu trợ xã hội cũng tiếp tục phát triển để giúp đỡ những
người có hoàn cảnh khó khăn như những người già cô đơn, người tàn tật, trẻ
em mồ côi, người goá bụa và những người không may gặp rủi ro vì thiên
tai, hoả hoạn… Các dịch vụ xã hội như dịch vụ y tế, dự phòng tai nạn, dự
phòng y tế tái thích ứng; dịch vụ đặc biệt cho người tàn tật, người già,
bảo vệ trẻ em… được từng bước mở rộng ở các nước theo những điều kiện
16


tổ chức, chính trị, kinh tế – xã hội, tài chính và quản lý khác nhau. Hệ thống
ASXH được hình thành và phát triển rất đa dạng dưới nhiều hình thức khác
nhau ở từng quốc gia, trong từng giai đoạn lịch sử, trong đó BHXH là trụ cột
chính. Đạo luật đầu tiên về ASXH (Social Security) trên thế giới là Đạo luật
năm 1935 ở Mỹ.
Đạo luật này quy định thực hiện chế độ bảo vệ tuổi già, chế độ tử tuất,
tàn tật và trợ cấp thất nghiệp. Thuật ngữ ASXH được chính thức sử dụng.
Đến năm 1941, trong Hiến chương Đại Tây Dương và sau đó Tổ chức Lao
động Quốc tế (ILO) chính thức dùng thuật ngữ này trong các công ước quốc
tế. ASXH đã được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền con
người. Nội dung của ASXH đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền

cạnh khái niệm này, từ những cách tiếp cận khác nhau, một số nhà khoa
học đưa ra những khái niệm rộng - hẹp khác nhau về ASXH, chẳng hạn:
Theo H. Beveridge, nhà kinh tế học và xã hội học người Anh (1879-1963),
ASXH là sự bảo đảm về việc làm khi người ta còn sức làm việc và bảo
đảm một lợi tức khi người ta không còn sức làm việc nữa.
Trong Đạo luật về ASXH của Mỹ, ASXH được hiểu khái quát hơn, đó
là sự bảo đảm của xã hội, nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị của cá nhân,
đồng thời tạo lập cho con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát
triển tài năng đến tột độ.
Theo khái niệm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đang sử dụng:
“ASXH là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình
thông qua một loạt các biện pháp công cộng để chống lại tình cảnh khốn
khổ về kinh tế và xã hội gây ra bởi tình trạng bị ngưng hoặc giảm sút đáng
kể về thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật trong lao động, thất
nghiệp, tàn tật, tuổi già và tử vong; sự cung cấp về chăm sóc y tế và các
khoản tiền trợ cấp giúp cho các gia đình đông con” [38,tr 11].
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng định nghĩa này làm cơ sở
để triển khai những nội dung tiếp theo.
18


1.1.2. Bản chất của ASXH
Theo khái niệm ASXH ở trên, có thể thấy:
ASXH trước hết đó là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên
của mình.
Sự bảo vệ này được thực hiện thông qua các biện pháp công cộng.
Mục đích của sự bảo vệ này nhằm giúp đỡ các thành viên của xã hội trước
những biến cố, những “rủi ro xã hội” dẫn đến bị giảm hoặc mất thu nhập…
Như vậy, có thể nói, bản chất sâu xa của ASXH là góp phần đảm bảo
thu nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội với phương thức hoạt

cuộc sống của con người, kể cả phát triển bản thân con người.
Thứ ba, là các loại trợ giúp xã hội (cung cấp tiền, hiện vật…) cho
những người có rất ít hoặc không có tài sản (người nghèo khó), những người
cần sự giúp đỡ đặc biệt cho các gánh nặng gia đình… ASXH cũng khuyến
khích, thậm chí bao quát cả những loại trợ giúp như miễn giảm thuế, trợ cấp
về ăn, ở, dịch vụ đi lại…
Hệ thống ASXH hiện đại không chỉ là những cơ chế đơn giản nhằm
thay thế thu nhập mà đã trở thành những véctơ hỗn hợp của cái gọi là “những
chuyển giao xã hội”, tức là những công cụ, những biện pháp phân phối lại
tiền bạc, của cải và các dịch vụ xã hội có lợi cho những nhóm người “yếu
thế” hơn trong cộng đồng xã hội.
Như vậy, có thể thấy rõ bản chất của ASXH là nhằm che chắn, bảo vệ
cho các thành viên của xã hội trước mọi “biến cố xã hội” bất lợi.
ASXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp
Mỗi người trong xã hội từ những địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo
khác nhau… là những hiểu hiện khác nhau của một hệ thống giá trị xã hội.
Nhưng vượt lên trên tất cả, với tư cách là một công dân, họ phải được bảo
đảm mọi mặt để phát huy đầy đủ những khả năng của mình, không phân biệt
địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo… ASXH tạo cho những người bất hạnh,
những người kém may mắn hơn những người bình thường khác có thêm
20


những điều kiện, những lực đẩy cần thiết để khắc phục những “biến cố”,
những “rủi ro xã hội”, có cơ hội để phát triển, hoà nhập vào cộng đồng.
ASXH kích thích tích cực xã hội trong mỗi con người, kể cả những người
giàu và người nghèo; người may mắn và người kém may mắn, giúp họ
hướng tới những chuẩn mực của Chân - Thiện - Mỹ. Nhờ đó, một mặt có
thể chống thói ỷ lại vào xã hội; mặt khác, có thể chống lại được tư tưởng
mạnh ai nấy lo, “đèn nhà ai nhà ấy rạng”… ASXH là yếu tố tạo nên sự

kiểm soát giá cả, thu nhập và lợi nhuận…) hoặc gián tiếp (trợ cấp thực
phẩm, cung cấp hiện vật hoặc các dịch vụ công cộng như giáo dục, y tế,
nhà ở, giúp đỡ và bảo vệ trẻ em…). Việc phân phối lại theo chiều dọc có ý
nghĩa xã hội rất lớn (thực hiện cho một “tập hợp mở” tương đối).
Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện phân phối lại theo chiều dọc
còn gặp nhiều khó khăn do điều kiện tài chính và tổ chức. Song cũng có
thể có một số biện pháp để thực hiện một số chế độ cho những người có
thu nhập thấp thông qua hệ thống đóng góp và hệ thống trợ cấp. Những
người có thu nhập thấp thường được miễn giảm chế độ đóng góp, hoặc
được người chủ sử dụng lao động (kể cả Nhà nước) đóng cho hoàn toàn.
Hệ thống trợ cấp cũng lưu ý tới những người có thu nhập thấp (tỷ lệ trợ
cấp cao hơn so với những người có thu nhập cao). Sự phân phối theo
chiều ngang và theo chiều dọc đã tạo ra một lưới ASXH (social safety net
hoặc social security net).
ASXH góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội. Sự phát triển của xã hội là
một quá trình, trong đó các nhân tố kinh tế và nhân tố xã hội thường xuyên
tác động lẫn nhau. Sự phát triển của thế giới trong những năm gần đây đặt
ra mục tiêu là bảo đảm những cải thiện nhất định cho hạnh phúc của mỗi
người và đem lại những lợi ích cho mọi người; bảo đảm phân phối công
bằng hơn về thu nhập và của cải, tiến tới công bằng xã hội; đạt được hiệu
quả sản xuất, bảo đảm việc làm, mở rộng và cải thiện về thu nhập giáo dục
và y tế cộng đồng; giữ gìn và bảo vệ môi trường… Đáp ứng những nhu cầu
22


tối cần thiết cho những người gặp khó khăn, bất hạnh là vấn đề được ưu
tiên trong chiến lược phát triển của thế giới. Những lưới đầu tiên của
ASXH đã bảo vệ, giảm bớt sự khó khăn cho họ. Sự phát triển sau này của
những lưới khác tạo ra sự đa dạng trong ASXH, giải quyết được những
nhu cầu khác nhau của nhiều nhóm người trong những trường hợp “rủi ro

Đây là bộ phận lớn nhất trong hệ thống ASXH. Có thể nói, không
có BHXH thì không thể có một nền ASXH vững mạnh. BHXH ra đời và
phát triển từ khi cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện ở châu Âu.
BHXH nhằm bảo đảm cuộc sống cho những người công nhân công
nghiệp và gia đình họ trước những rủi ro xã hội như ốm đau, tai nạn, mất
việc làm…, làm giảm hoặc mất thu nhập. Tuy nhiên, cũng do tính lịch sử
và phức tạp của vấn đề, khái niệm BHXH đến nay cũng chưa được hiểu
hoàn toàn thống nhất và gần đây có xu hướng hòa nhập giữa BHXH với
ASXH. Khi đề cập đến vấn đề chung nhất, người ta dùng khái niệm
SOCIAL SECURITY và vẫn dịch là BHXH, nhưng khi đi vào cụ thể
từng chế độ thì BHXH được hiểu theo nghĩa của từ SOCIAL
INSURANCE. Tuy nhiên, sự hòa nhập này không có nghĩa là hai thuật
ngữ này là một. Theo nghĩa hẹp, cụ thể, có thể hiểu BHXH là sự bảo
đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi
họ gặp rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm làm giảm hoặc mất khả năng lao
động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ
tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ
góp phần đảm bảo ASXH [38, tr 19].
BHXH có những điểm cơ bản là: BHXH dựa trên nguyên
tắc cùng chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia; đòi hỏi tất cả
mọi người tham gia phải đóng góp tạo nên một quỹ chung; các
thành viên được hưởng chế độ khi họ gặp các “sự cố” và đủ điều
kiện để hưởng; chi phí cho các chế độ được chi trả bởi quỹ
BHXH; nguồn quỹ được hình thành từ sự đóng góp của những
người tham gia, thường là sự chia sẻ giữa chủ sử dụng lao động và
24


người lao động, với một phần tham gia của Nhà nước; đòi hỏi tham
gia bắt buộc, trừ những trường hợp ngoại lệ; phần tạm thời chưa sử dụng

quyền lợi trong một thể chế chính trị - xã hội bền vững.
Trong hoạt động BHXH, BHYT, Nhà nước tiến hành xây dựng
chính sách, chế độ, tổ chức triển khai và giám sát quá trình thực hiện nhằm
thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của người tham gia BHXH, BHYT. Như vậy
nhà nước giữ vai trò quản lý về BHXH, BHYT, bảo hộ cho quỹ BHXH mà
không phải chi từ ngân sách Nhà nước cho lĩnh vực này. Mặt khác, chính
sách BHXH, BHYT là bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, giúp Nhà
nước điều tiết mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trên
phương diện vĩ mô, bảo đảm cho nền kinh tế liên tục phát triển và giữ gìn ổn
định xã hội trong từng thời kỳ cũng như trong suốt quá trình.
Chính sách BHYT với mục tiêu thực hiện BHYT toàn dân đã tạo
điều kiện cho người dân giảm bớt gánh nặng chi phí khám chữa bệnh do
ốm đau, tai nạn, tạo sự bình đẳng trong khám chữa bệnh BHYT.
Thứ hai, thực hiện tốt chính sách BHXH, BHYT, nhất là chế độ hưu
trí, góp phần ổn định cuộc sống của người lao động khi hết tuổi lao động
hoặc không còn khả năng lao động.
Theo quy định của Luật BHXH, người lao động tham gia đóng
BHXH từ 20 năm trở lên khi hết tuổi lao động hoặc mất sức lao động thì
được hưởng lương hưu hoặc trợ cấp hàng tháng. Với nguồn lương hưu và
trợ cấp BHXH, người cao tuổi có thu nhập ổn định, đảm bảo cuộc sống
sinh hoạt hàng ngày. Hiện nay cả nước có khoảng 2,5 triệu người hết tuổi
lao động đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng với số tiền
chi trả từ quỹ BHXH hàng nghìn tỷ mỗi tháng.
Thứ ba, thực hiện chính sách BHXH, BHYT góp phần ổn định và
nâng cao chất lượng lao động, đảm bảo sự bình đẳng về vị thế xã hội của
người lao động trong các thành phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy sản xuất
phát triển.
26




Sự an tâm của người lao động cũng như việc bảo vệ sức lao động của
họ thông qua chính sách BHXH, BHYT đã trở thành một chính sách thu hút
nguồn lao động vào nền sản xuất xã hội, bảo đảm sự ổn định và thúc đẩy
sản xuất phát triển.
Thứ tư, BHXH, BHYT là một công cụ đắc lực của Nhà nước, góp
phần vào việc phân phối lại thu nhập quốc dân một cách công bằng, hợp lý
giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời giảm chi phí cho ngân sách Nhà nước,
đảm bảo ASXH bền vững.
Trên thị trường lao động, “tiền lương là giá cả sức lao động” được
hình thành tự phát căn cứ vào quan hệ cung cầu, vào chất lượng lao động
cũng như các điều kiện khung mà trong đó Nhà nước chỉ đóng vai trò quản
lý thông qua nhưng quy định về mức lương tối thiểu và những điều kiện
lao động cần thiết. Quá trình hình thành tiền lương theo thỏa thuận giữa
chủ sử dụng lao động và người lao động là sự phân phối lần đầu và phân
phối trực tiếp cho từng người lao động. Do vậy, người lao động có tay
nghề cao, có nghề nghiệp thích ứng với nhu cầu xã hội sẽ có thu nhập cao.
Đó là sự hợp lý, khuyến khích làm giàu chính đáng.
Sau khi đã thực hiện thuế thu nhập, Nhà nước sẽ tiến hành phân phối
lại thông qua chính sách BHXH, BHYT. Khi đó, người có năng lực hơn,
nhận được tiền lương cao hơn sẽ đóng góp nhiều hơn cho xã hội để trợ giúp
những người “yếu thế” hơn trong xã hội. Một bộ phận lao động khác do gặp
rủi ro trong cuộc sống như về sức khỏe, về năng lực, về hoàn cảnh gia
đình… có việc làm và thu nhập thấp hơn sẽ nhận được các quyền lợi
BHXH, BHYT để duy trì cuộc sống. Bên cạnh đó, chế độ hưu trí, tử tuất
với nguyên tắc tương đồng giữa mức đóng và mức hưởng đã khuyến khích
người lao động khi làm việc có thu nhập cao và đóng ở mức cao, với thời
gian dài thì sau này sẽ được hưởng tiền lương hưu với mức cao, an tâm nghỉ
ngơi khi tuổi già.
28

29


được thực hiện bởi các tổ chức kinh tế - xã hội, các đoàn thể và từng cá
nhân trong cộng đồng. Đồng thời hoạt động trợ giúp xã hội không chỉ bó
hẹp trong phạm vi quốc gia mà nó còn được thực hiện trên phạm vi quốc
tế; Nhà nước thực hiện chính sách trợ giúp xã hội chủ yếu thông qua chính
sách thuế để huy động sự đóng góp của các cá nhân, các tổ chức vào ngân
sách này để trợ giúp cho những người có hoàn cảnh khó khăn, không may
gặp thiên tai, địch họa hoặc lâm vào hoàn cảnh yếu thế không tự lo liệu
được cuộc sống của mình.
Ƣu đãi xã hội
Đất nước ta trải qua thời kỳ đấu tranh giữ nước chống giặc ngoại
xâm kéo dài vì thế khi thống nhất đất nước, ưu đãi người có công là một
vấn đề chính trị, xã hội, kinh tế văn hóa đặc biệt. Đến năm 2010, cả nước
còn 1,5 triệu người hưởng ưu đãi thường xuyên. Ngân sách nhà nước chi
trả trợ cấp ưu đãi hàng tháng gần 20 tỷ đồng/năm. Ưu đãi người có công
trong hệ thống ASXH ở Việt Nam luôn là mối quan tâm lớn của Đảng và
Nhà nước ta.
Là chính sách đặc thù dành cho những người hoặc thân nhân những
người đã cống hiến, hi sinh cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc,
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế.
Chính sách ưu đãi xã hội về bản chất là ghi nhận, trân trọng tôn vinh,
đền ơn đáp nghĩa với người có công, chăm lo, bù đắp bằng vật chất, tinh
thần đối với những cống hiến, đóng góp, hi sinh của người có công cho sự
nghiệp cách mạng.
Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội là một việc làm tất yếu bởi vì bất
kì chính sách nào xây dựng cũng dựa trên nền tảng được xã hội công nhận.
Đối với chính sách ưu đãi xã hội, cơ sở nền tảng để xây dựng và thực hiện
chính sách là đạo đức xã hội và nguyên tắc công bằng xã hội.

thương binh, anh hùng, thanh niên xung phong, cán bộ tiền khởi nghĩa;
nhóm đối tượng là thân nhân như gia đình liệt sĩ, mẹ Việt nam anh hùng…
31


Phân theo hình thức cống hiến, mức độ hi sinh: Rất nhiều hình thức
cống hiến, hi sinh cho cách mạng của người có công như hi sinh tính mạng
(liệt sĩ), một phần xương máu (thương binh), một thời tuổi trẻ (thanh niên
xung phong)…
Việc xem xét theo nhóm đối tượng với những tiêu chí khác nhau là
cơ sở để xác định cách tiếp cận xây dựng, thực hiện chính sách ưu đãi xã
hội một cách phù hợp đạo lý và nguyên tắc công bằng xã hội.
Như đã trình bày ở trên cơ sở lý luận xây dựng và thực hiện chính
sách xã hội dựa trên nền tảng tư tưởng là truyền thống uống nước nhớ
nguồn và nguyên tắc công bằng xã hội (hay quyền được hưởng). Tuy
nhiên câu hỏi đặt ra là chính sách ưu đãi thực hiện như thế nào? Mức độ
ưu đãi ra sao? Lại phụ thuộc vào cơ sở thực tiễn phát triển kinh tế xã hội
của đất nước và đời sống của các đối tượng chính sách ưu đãi xã hội.
Chính sách ưu đãi xã hội trong những năm qua đã đạt nhiều kết quả và
thành tựu đáng ghi nhận, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nâng cao mức
sống người có công và gia đình, phù hợp với khả năng của nền kinh tế qua
các thời kỳ, đặc biệt là qua các lần cải cách tiền lương, BHXH và ưu đãi
người có công. Trong thời gian tới cần tích cực giải quyết và khắc phục
những điểm hạn chế, bất cập của chính sách và hoàn thiện hệ thống pháp
luật theo hướng tiếp tục thực hiện cải cách ưu đãi người có công; xử lý dứt
điểm các trường hợp còn tồn đọng về xác nhận, công nhận người có công
đồng thời bổ sung thêm đối tượng người có công mới; giải quyết nhu cầu
về nhà ở, việc làm cho gia đình người có công và mở rộng phong trào xã
hội hóa công tắc chăm sóc người có công.
Xóa đói giảm nghèo


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status