So sánh hoạt động của đảng dân chủ và đảng cộng hòa trong hệ thống chính trị mỹ từ năm 2001 đến nay - Pdf 35

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG

SO SÁNH HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG DÂN CHỦ VÀ
ĐẢNG CỘNG HÒA TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỸ
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG

SO SÁNH HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG DÂN CHỦ VÀ
ĐẢNG CỘNG HÒA TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỸ
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. Nguyễn Thiết Sơn

Hà Nội - 2016



Nguyễn Thị Huyền Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 6
6. Dự kiến đóng góp của đề tài ......................................................................... 6
7. Kết cấu của đề tài .......................................................................................... 6
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ ĐẢNG PHÁI TRONG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ MỸ ............................................................................................. 7
1.1. Một số khái niệm cơ bản.......................................................................... 7
1.1.1. Hệ thống chính trị Mỹ ............................................................................. 7
1.1.2. Đảng chính trị ....................................................................................... 15
1.1.3. Đảng cầm quyền .................................................................................... 18
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Đảng phái chính trị Mỹ ............. 18
1.2.1. Sự hình thành của hệ thống đa đảng ở Mỹ ........................................... 18
1.2.2. Các giai đoạn phát triển của Đảng chính trị ........................................ 21
1.3. Cơ cấu tổ chức của Đảng chính trị Mỹ .................................................... 28
1.3.1. Đảng cấp quốc gia (Đảng chính trị toàn quốc) .................................... 30
1.3.2. Đảng cấp bang ...................................................................................... 32
1.3.3. Đảng cấp địa phương ............................................................................ 33
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 35
Chƣơng 2. HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG DÂN CHỦ VÀ ĐẢNG CỘNG
HÒA TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY .................................................................. 37
2.1. Hoạt động bầu cử ................................................................................... 37

DANH MỤC VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG ANH
CHDCND
CA –TBD

DR-CAFTA

IMF

Democratic People's

Cộng hòa Dân chủ Nhân

Republic

dân

Asia - Pacific

Châu Á – Thái Bình
Dương

Dominican Republic-Central

Hiệp định Thương mại Tự

American Free Trade

do Trung Mỹ Cộng hòa


Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại

Organization

Tây Dương

United Nation

Liên hợp quốc

GDP

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm quốc nội

GNP

Gross National Product

Tổng sản phẩm quốc dân

EU

R&D

European Union

Research & Development


World Trade Center

Thái Bình Dương

Trung tâm thương mại thế
giới


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nước Mỹ là một trong những quốc gia xuất hiện muộn, lịch sử hình
thành và phát triển không dài - hơn 200 năm. Tuy nhiên, nước Mỹ đã vươn
lên và trở thành cường quốc số một, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nước
trên thế giới. Là một quốc gia đa dạng về chủng tộc, có nhiều đảng chính trị
khác nhau, nhưng từ khi Đảng chính trị được ra đời tại Mỹ cho đến nay, chỉ
có hai đảng lớn là Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa thay nhau cầm quyền,
giữ vai trò quan trọng trên chính trường nước Mỹ. Và trong hoạt động bầu cử
Tổng thống, cũng chỉ có hai đảng này giành được chiến thắng. Các ứng cử
viên trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng chủ yếu đều thuộc hai đảng lớn, dù
đảng thứ ba có xuất hiện trong các cuộc bầu cử Tổng thống, thì đảng này cũng
chưa bao giờ giành được chiến thắng. Mỗi đảng khi đưa người ra ứng cử với
một đường lối, chiến lược và quan điểm điều hành nước Mỹ khác nhau nhưng
đều tuân theo một nguyên tắc hoạt động chung của đảng phái trong hệ thống
chính trị, nhằm đạt mục tiêu duy trì vị thế lãnh đạo thế giới của Mỹ, duy trì
hình ảnh một cường quốc quan trọng và giàu có nhất trên hành tinh.
Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao một quốc gia dân chủ, đa dạng như Hoa
Kỳ lại duy trì tình trạng chỉ có hai đảng chủ chốt thay nhau cầm quyền? Yếu
tố nào chi phối sự tồn tại, phát triển bền vững và ảnh hưởng mạnh mẽ từ trước
đến nay của các đảng cầm quyền? Trong nhiệm kỳ của mình, các Tổng thống –

Mỹ thuộc Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa có tác động đến nhiều quốc gia
trên thế giới. Mặc dù vấn đề về đảng chính trị tại Mỹ là một vấn đề không
mới nhưng trong sự biến đổi của bối cảnh an ninh – chính trị nước Mỹ sau vụ
khủng bố 11/9 và hậu quả mà nó để lại cho Mỹ thì đó thực sự là một trong
những vấn đề quốc tế nổi bật.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu hoạt động và vai trò của Đảng Dân chủ và
Đảng Cộng hòa là vấn đề quan trọng, để hiểu rõ hơn về tầm ảnh hưởng của
hai đảng với Mỹ, cũng như thế giới và trong quan hệ Việt – Mỹ ngày nay,
2


nhất là đối với việc tăng cường hơn nữa quan hệ ngày càng mở rộng giữa hai
nước. Tuy nhiên, từ năm 2001 đến nay, các nghiên cứu hầu như chưa đề cập
sâu đến việc so sánh hoạt động của hai đảng chính trị lớn ở Mỹ. Chính vì vậy,
việc nghiên cứu vấn đề trở nên cấp thiết hiện nay, và tác giả đã mạnh dạn
chọn đề tài: “So sánh hoạt động của Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa
trong hệ thống chính trị Mỹ từ năm 2001 đến nay” để làm Luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động của Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa từ trước tới nay vẫn
luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm và nghiên cứu của các học giả trong và
ngoài nước. Có nhiều công trình nghiên cứu về chính sách, hoạt động của hai
đảng cầm quyền ở Mỹ, nhưng những công trình đó do xuất phát từ những
quan điểm nghiên cứu khác nhau, nên kết quả nghiên cứu ít nhiều có quan
điểm khác nhau.
Trước tiên phải kể đến Cuốn “Hệ thống chính trị Mỹ” do TS.Vũ Đăng
Hinh chủ biên (NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2001). Tác giả đã trình bày
chi tiết về lịch sử hình thành, các nguyên tắc hoạt động, đến các thiết chế, thể
chế chính trị; các đảng phái chính trị, những nhóm lợi ích trong hệ thống
chính trị Mỹ và các hoạt động chính trị. Tác giả đã có cách tiếp cận mới để đi
đến việc nghiên cứu hệ thống chính trị một cách toàn diện, từ thể chế, đến

12/2007, tr. 3-17) và bài viết“Chính sách và vai trò của Mỹ ở khu vực Châu Á
– Thái Bình Dương” (Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 1/2005, tr. 3-11) của tác
giả Nguyễn Thiết Sơn; “Chính sách đối ngoại Mỹ trong những năm cuối
nhiệm kỳ của Tổng thống Geogre W. Bush” (Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số
2/2007, tr. 21-32) của Nguyễn Thái Yên Hương; bài viết “Sự hình thành của
hệ thống lưỡng đảng trong nền chính trị Hoa Kỳ” của tác giả Lê Lan Anh
(Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, tháng 8/2005) và bài viết của nhiều tác giả khác
đăng trên Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế với các
nội dung chủ yếu tập trung vào phân tích hoạt động, việc điều chỉnh chiến
lược, chính sách của nước Mỹ dưới chính quyền Tổng thống G. Bush và Tổng
thống B. Obama.
4


Những công trình trên đây đã trình bày sâu sắc và khá toàn diện về
đảng phái ở Mỹ, cho chúng ta thấy được những nét cơ bản của quá trình hình
thành, phát triển, vai trò và tác động của các đảng chính trị Mỹ trong đời sống
xã hội Mỹ. Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều vấn đề cần được lý giải và nghiên cứu cụ
thể hơn, cập nhật hơn về hệ thống đảng phái ở Mỹ, nhằm làm sáng tỏ hơn bản
chất, vai trò, ý nghĩa của các đảng chính trị trong đời sống xã hội Mỹ hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài Luận văn có mục đích nghiên cứu là so sánh hoạt động của Đảng
Cộng hòa và Đảng Dân chủ ở Mỹ từ 2001 đến nay trong một số lĩnh vực như:
bầu cử, kinh tế xã hội, an ninh quân sự, cuộc chiến chống khủng bố và chính
sách “xoay trục” sang Châu Á – Thái Bình Dương dưới thời Tổng thống Bush
và Tổng thống Obama. Từ đó tìm ra sự giống và khác nhau trong mô hình
hoạt động của hai đảng trong hệ thống chính trị Mỹ.
Để đạt được mục đích đó, Luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu, tìm hiểu và làm rõ khái niệm, bộ phận cấu thành của hệ
thống chính trị, hệ thống đảng phái chính trị trong hệ thống chính trị Mỹ.

Tổng thống B. Obama.
- Đề tài nêu rõ quá trình hình thành, phát triển hệ thống lưỡng đảng
trong hệ thống chính trị Mỹ và các giai đoạn cầm quyền của Đảng Dân chủ
và Đảng Cộng hòa. Từ đó, nêu ra sự khác biệt trong hoạt động của hai đảng
từ năm 2001 đến nay.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về đảng phái trong hệ thống chính trị Mỹ
Chương 2: Hoạt động của Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa từ năm
2001 đến nay
Chương 3: Một số nhận xét về hoạt động của Đảng Dân chủ và
Đảng Cộng hòa

6


Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ ĐẢNG PHÁI TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỸ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Hệ thống chính trị Mỹ
Năm 1768, cuộc đấu tranh giành độc lập của Mỹ dưới sự lãnh đạo của
George Washington bắt đầu. Năm 1776, Đại hội Lục địa tại Philadenphia đã
thông qua bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, tuyên bố thành lập nhà nước Liên
bang gồm 13 bang đầu tiên. Vào giai đoạn này, cơ cấu liên bang còn rất lỏng
lẻo, chỉ là một hợp bang, hay một liên minh hữu nghị giữa các bang được
thành lập. Trung tâm của liên minh này là Quốc hội một viện, được gọi là Đại
hội hợp bang. Mỗi bang có một phiếu, không phụ thuộc vào quy mô của bang.
Các hoạt động quan trọng đều phải cần đến sự đồng thuận của ít nhất 9 bang
và đối với các nội dung trong điều khoản liên bang phải do cả 13 bang đồng ý


Trong hệ thống chính trị Mỹ, ngành lập pháp có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc xây dựng thể chế để quản lý xã hội và kiềm chế - đối trọng
với các thiết chế khác trong hệ thống chính trị. Theo quy định của Hiến pháp
Mỹ, Quốc hội đóng vai trò là trung tâm của hệ thống chính trị, có những
quyền lực rất lớn, như quyền làm ra luật cho toàn quốc, quyền sửa đổi điều
luật, giám sát hoạt động của bộ máy hành pháp, tư pháp và các tổ chức chính
trị khác. Quốc hội Mỹ là một thể chế lưỡng viện, gồm hai nhánh: Thượng
viện và Hạ viện.
+ Thượng viện có quy chế làm việc tự do hơn so với Hạ viện. Quy mô của
Quốc hội Mỹ phát triển theo quy mô phát triển của đất nước. Với quy chế mỗi
bang chỉ có hai thượng nghị sĩ, Quốc hội đầu tiên của Mỹ chỉ có 26 thành viên.
Khi có một bang mới, Thượng viện sẽ tăng thêm 2 thành viên và vì vậy, Thượng
viện Mỹ hiện nay có 100 thượng nghị sĩ được bầu từ 50 bang khác nhau.
Ứng cử viên Thượng viện phải từ 30 tuổi trở lên, là công dân Mỹ ít
nhất 9 năm và là người cư trú tại chính bang mà họ đại diện. Các khu hành
chính trực thuộc không có đại diện tại Thượng viện. Các Thượng nghị sĩ có
nhiệm kỳ 6 năm và được bầu lại bởi cử tri các bang. Cứ hai năm một lần,
Thượng viện tổ chức bầu cử lại 1/3 số thượng nghị sĩ. Về mặt pháp lý, Phó
8


Tổng thống đồng thời là Chủ tịch Thượng viện. Song trên thực tế, điều hành
công việc hàng ngày của Thượng viện là thủ lĩnh phe đa số trong Thượng
viện. Phó Tổng thống chỉ bỏ phiếu khi cần thiết để tránh bế tắc, trong trường
hợp Thượng viện rơi vào tình huống 50/50 về một vấn đề nào đó [57].
+ Hạ viện: So với Thượng viện, Hạ viện có quy mô lớn hơn. Quốc hội
đầu tiên của Mỹ có 67 hạ nghị sĩ. Do dân số tăng lên, quy mô Hạ viện cũng
tăng theo. Năm 1992, Quốc hội đã thông qua một đạo luật quy định số lượng
thành viên cố định của Hạ viện là 435 hạ nghị sĩ [15, 246]. Khác với Thượng

đối với cả hai bên, trước khi dự luật trở thành luật.
Thượng viện có quyền xác nhận sự bổ nhiệm của Tổng thống đối với
các quan chức cấp cao và các đại sứ của chính quyền liên bang, cũng như phê
chuẩn tất cả các hiệp ước với 2/3 số phiếu thuận. Khi đó, hành động không
ủng hộ của Thượng viện sẽ vô hiệu hóa hành động của ngành hành pháp.
Hạ viện có toàn quyền đưa ra lời buộc tội về hành vi bất chính có thể
dẫn tới việc xét xử ở tòa án. Khi ấy, Thượng viện cũng có toàn quyền kiểm tra
những trường hợp luận tội và xác minh xem các quan chức là có tội, hay vô
tội. Các quan chức liên bang sẽ buộc phải rời khỏi cơ quan nhà nước khi bị
phát hiện là phạm tội.
+ Quyền hạn của Quốc hội
Quốc hội là nơi diễn ra các sự thỏa hiệp của các đảng chính trị, do
chính trị quyết định, hay nói một cách khác, hoạt động của nó luôn phụ thuộc
vào từng cơ quan, lực lượng chính trị, mà hai Đảng Dân chủ và Đảng Cộng
hòa đóng vai trò quyết định. Hiến pháp Mỹ trao cho Quốc hội quyền hành rất
lớn, đó là quyền lập pháp, quyền sửa đổi hiến pháp và pháp luật. Điều I, mục
8 của Hiến pháp Hoa Kỳ đã quy định quyền hạn rộng lớn của Quốc hội như
sau [55]:
+ Đánh thuế và thu thuế; vay tiền cho công quỹ; thiết lập các luật lệ và các
quy chế điều chỉnh quan hệ thương mại giữa các bang và với nước ngoài; thiết lập
các quy định thống nhất cho việc nhập tịch của công dân nước ngoài; thiết lập hệ
thống tòa án liên bang; tuyên bố chiến tranh, và một số quyền lực khác…
10


Ngoài ra, hiến pháp cũng có những điều cấm cụ thể đối với những hoạt
động nhất định của Quốc hội. Quốc hội không được phép [55]:
+ Thông qua các luật trong đó lên án ai đó về sự phạm tội, hay hành vi
phạm pháp, mà không thông qua tòa án; Đánh thuế trực thu lên công dân, trừ
trường hợp dựa trên cơ sở một cuộc điều tra dân số đã được tiến hành; Đánh

hội liên bang thông qua, phải được Tổng thống ký mới trở thành luật. Hiến
pháp cho phép Tổng thống quyền phủ quyết dự luật đã được Quốc hội liên
bang thông qua. Vì quyền lực lớn như vậy, nên Tổng thống Mỹ thường được
ví như là người có quyền lực lớn nhất trên thế giới. Tuy nhiên, những quyền
hạn lớn của Tổng thống cũng bị giới hạn, vì có sự kiểm tra và giám sát của
các cơ quan khác được ghi trong Hiến pháp. Nhưng trong thời gian gần đây,
sức mạnh của báo chí và tầm quan trọng của chính sách ngoại giao đã làm
tăng vị thế của Tổng thống.
Ngoài Tổng thống, bộ máy hành pháp Hoa Kỳ còn có Phó Tổng thống,
15 bộ và trên 60 Ủy ban độc lập. Các bộ trưởng do Tổng thống bổ nhiệm và
phải được Thượng viện thông qua. Phó Tổng thống là Chủ tịch Thượng viện,
giám sát các vấn đề thủ tục và có quyền biểu quyết trong trường hợp phiếu
của các thượng nghị sỹ rơi vào thế cân bằng. Phó tổng thống cũng chủ trì
phiên họp chung của Quốc hội khi Quốc hội chính thức đếm phiếu của cuộc
bầu cử Tổng thống. Vị trí của Phó Tổng thống đã được củng cố trong thế kỷ 20,
khi theo tục lệ Phó Tổng thống được mời tham dự các cuộc họp của nội các. Và
hơn nữa vào năm 1949, Quốc hội đã cho phép Phó Tổng thống trở thành một
trong bốn thành viên chính thức của Hội đồng An ninh Quốc gia [68].
Trong hệ thống hành pháp liên bang còn có Văn phòng Nhà trắng, Văn
phòng quản trị và tài chính, các hội đồng cố vấn. Các hội đồng cố vấn đóng
vai trò quan trọng trong hoạch định chính sách của Tổng thống. Đáng chú ý
nhất là Hội đồng an ninh quốc gia, Hội đồng cố vấn kinh tế, và Hội đồng
chính sách phát triển.
Ngành hành pháp Mỹ có hệ thống hành pháp liên bang và hệ thống
hành pháp các bang. Cơ quan hành pháp bang do Thống đốc bang đứng đầu.
12


Ở các bang, thẩm quyền của Thống đốc là khác nhau, những Thống đốc bang
có nhiệm kỳ ngắn (dưới 4 năm) thường phải chia sẻ quyền hành với một số

Nguồn tài chính của các nhóm lợi ích là những khoản đóng góp hay các
khoản lệ phí thành viên. Các thành viên của nhóm lợi ích liên lạc với nhau
chủ yếu qua các bản tin, thư từ, hội thảo.
Có nhiều dạng nhóm lợi ích khác nhau: nhóm lợi ích kinh doanh, nhóm
công đoàn, nhóm nghề nghiệp và nhóm lợi ích công. Hoạt động của các nhóm
lợi ích chủ yếu là vận động hành lang và tham gia vào hoạt động bầu cử.
Là một quốc gia ra đời muộn dựa trên những bài học kinh nghiệm từ
các mô hình chính trị đã có trong lịch sử, cũng như từ những kinh nghiệm
thực tế của các bang đầu tiên, các nhà lập quốc Mỹ đã thiết kế cho mình một
mô hình chính trị riêng. Về cơ bản, hệ thống chính trị Mỹ hiện nay vẫn giữ
nguyên những nguyên tắc đã được định hình từ thời lập quốc và với cách thức
tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tam quyền phân lập triệt để, hình
thành cơ chế kiểm soát và cân bằng quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy
công quyền. Bộ máy công quyền được phân quyền, đồng thời có nhiều quy
định để kiềm chế lẫn nhau, nên không có nhánh quyền lực nào được toàn
quyền ở lĩnh vực nào. Điều này đã hạn chế một cách đáng kể khả năng lạm
quyền của các cơ quan công quyền.
1.1.2. Đảng chính trị
Đảng là tập hợp một nhóm người có chung mục đích, lý tưởng. Người
ta gọi đảng phái có nghĩa là cơ cấu chính trị trong đó nhiều đảng tranh giành
quyền lãnh đạo chính quyền một cách hòa bình với nhau thông qua bầu cử.
Ngày nay, trên thế giới không có quốc gia nào lại không có đảng chính
trị. Hình thức tiền thân của đảng chính trị là các nhóm chính trị, các câu lạc
bộ chính trị… Sự ra đời và phát triển của các đảng chính trị có liên quan chặt
chẽ với quyền tồn tại của các nhóm khác nhau trong xã hội, quyền các nhóm
được kiểm soát, chi phối lãnh đạo và hạn chế quyền của đảng cầm quyền. Có
thể thấy, các đảng phái là sản phẩm của một logic chính trị, xuất phát từ
những hành động mang tính chiến lược của các chính trị gia và các công dân
15


16


1. Có biểu tượng và có tên đảng để hoạt động và thể hiện trên hòm phiếu.
2. Phải gây được một ấn tượng tâm lý đáng kể với cử tri để khi hành động,
họ tự hào nhận rằng “tôi là người Dân chủ” hay “tôi là người Cộng hòa”.
3. Phải tổ chức được hội nghị toàn quốc theo định kỳ để lựa chọn
người ra ứng cử vào chức vụ tổng thống.
4. Có một văn phòng họp riêng ở cơ quan lập pháp để các đại biểu
Quốc hội có thể trao đổi với đại diện của đảng.
5. Có một trụ sở quốc gia với một Chủ tịch và những người cộng sự.
Tuy nhiên, đây mới chỉ là dấu hiệu bên ngoài, còn dấu hiệu mang tính
cốt lõi của một đảng chính trị ở Mỹ “là một tổ chức cùng chung lý tưởng, tích
cực tìm cách kiểm soát bộ máy nhà nước thông qua tuyển cử”. Ở đây, điều hết
sức căn bản về thực chất tồn tại của “tổ chức” này là lợi ích. Bởi lẽ thông qua
sự kiểm soát bộ máy nhà nước lợi ích của đảng cầm quyền được thực hiện ở
mức cao nhất.
Với những quan điểm như trên, đảng chính trị ở Mỹ được định nghĩa
như sau: “Đảng chính trị là một nhóm các cá nhân, được tổ chức lại nhằm
giành chiến thắng trong cuộc bầu cử để điều hành chính phủ và quyết định
chính sách công cộng.” [12, 14]
Dựa trên những quan điểm và cách giải thích về đảng chính trị như
trên, tôi cho rằng, đảng chính trị là một tổ chức chính trị gắn chặt với hoạt
động chủ yếu là giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Các đảng thông
qua việc thực hiện những lợi ích chung của nhân dân, để đạt được lợi ích của
phe nhóm và giai cấp mà đảng chính trị đại diện.
Chính vì vậy, hoạt động của các đảng chính trị ngày nay luôn gắn với
cuộc đấu tranh giành chính quyền, để từ đó hiện thực hóa lợi ích của phe
nhóm, giai cấp. Các đảng chính trị luôn mong muốn trở thành đảng cầm
quyền, đứng ra thành lập chính phủ để thể hiện ý chí và lợi ích của tầng lớp,


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status