Luận văn thạc sĩ kinh tế đề tài hoàn thiện phân tích hiệu quả hoạt động trong ngân hàng thương mại - Pdf 35

PHẦN MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong hoạt động, các Ngân hàng thương mại đều mong muốn tăng khả năng
sinh lời và giảm thiểu rủi ro. Trong đó, tăng khả năng sinh lời là mục tiêu quan trọng
hơn cả vì nó là cơ sở bảo toàn vốn, giúp cho ngân hàng tồn tại và phát triển. Trong môi
trường cạnh tranh với các trung gian tài chính khác trên thị trường tài chính, Ngân
hàng thương mại luôn chịu áp lực giảm giá dịch vụ, các khoản cho vay truyền thống
của ngân hàng và tiền gửi của khách hàng cũng bị cạnh tranh mạnh mẽ đòi hỏi ngân
hàng phải không ngừng nâng cao hiệu quả. Hơn nữa, hiệu quả hoạt động của Ngân
hàng thương mại có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của các doanh nghiệp nói
riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Vì thế nâng cao hiệu quả hoạt động được các
nhà quản trị và lãnh đạo ngân hàng rất quan tâm. Một trong những giải pháp quan
trọng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng thương mại là hoàn thiện hệ
thống thông tin nói chung và thông tin hiệu quả nói riêng. Thông tin đa dạng, kịp thời
đầy đủ và chính xác thì chất lượng của những quyết định từ các nhà quản trị ngân hàng
càng cao, mang lại hiệu quả hoạt động càng lớn.
Tuy nhiên, trong những năm qua, mặc dù các nhà quản trị ngân hàng đã quan
tâm nhiều đến thông tin nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần hoàn thiện hơn nữa cả về nội
dung và phương pháp phân tích hiệu quả. Trong đó, hệ thống các chỉ tiêu trong phân
tích hiệu quả được xem là quan trọng, vì một khi đã có các chỉ tiêu đúng, chính xác
phản ánh kịp thời các thông tin thì việc ra quyết định từ các nhà quản trị ngân hàng
mang lại hiệu quả cao.
Nhằm giải quyết vấn đề này, tác giả lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện phân tích
hiệu quả hoạt động trong Ngân hàng thương mại (Khảo sát tại Ngân hàng Công
Thương Đà Nẵng)” làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu thực trạng các chỉ tiêu trong phân tích hiệu quả hoạt động của ngân
hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Từ đó làm cơ sở cho việc đánh giá xây dựng và
hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu mới nhằm giúp cho các ngân hàng thương mại có
được những thông tin đánh giá đầy đủ, chính xác và hệ thống hơn.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:



CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng có lịch sử phát triển lâu đời và gắn liền với nền sản xuất hàng hoá.
Cùng với sự phát triển của xã hội, các quan hệ tín dụng ngày càng được mở rộng, vượt
ra ngoài phạm vi quốc gia và ngân hàng được hình thành rõ rệt, bao gồm hai bộ phận
đó là Ngân hàng trung ương và Ngân hàng trung gian với những chức năng khác nhau.
Ngân hàng trung ương thực hiện chính sách tiền tệ của nhà nước và hoạt động
chủ yếu không vì mục tiêu lợi nhuận mà mục tiêu cuối cùng là góp phần thực hiệu
mục tiêu kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng của
Ngân hàng trung ương, thuộc khu vực thể chế quản lý Nhà nước, nguồn vốn hoạt động
do ngân sách Nhà nước cấp.
Ngân hàng trung gian thực hiện nhiệm vụ trung gian tài chính giữa những
người cho vay và những người đi vay. Trong các Ngân hàng trung gian, Ngân hàng
thương mại có vị trí quan trọng và là doanh nghiệp đặc thù, kinh doanh đồng vốn, giữ
vai trò thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương chỉ đạo.
Theo “Luật các tổ chức tín dụng” được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 2 thông
quan ngày 12/12/1997, Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng được thực
hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Ngân hàng
thương mại thuộc khu vực thể chế tài chính, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, quan hệ
hoạt động chủ yếu với các tổ chức, cá nhân có nhu cầu về vốn và những dịch vụ ngân
hàng khác.
1.1.2 Chức năng của Ngân hàng thương mại:
1.1.2.1Chức năng trung gian tài chính
Ngân hàng là điểm nút trung gian chu chuyển các nguồn vốn trong nền kinh tế
từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ nơi có mức sinh lời thấp đến nơi có mức sinh lời cao hơn

thanh toán trong hệ thống ngân hàng, trong mối quan hệ chặt chẽ với hệ thống Ngân
hàng trung ương. Quá trình tạo ra tiền “bút tệ” được mô tả là khả năng biến mức tiền
gửi ban đầu tại một ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn gấp
nhiều lần khi thực hiện các nghiệp vụ tín dụng thanh toán qua nhiều ngân hàng. Cụ thể
là một ngân hàng này cho vay xong là hết vốn, thì số vốn đó lại chuyển sang ngân
hàng khác trở thành vốn tiền gửi và lần lượt số tiền đó làm tăng thêm số vốn tiền gửi
của các ngân hàng khác.
Với cơ chế tạo tiền qua ngân hàng đã bỏ qua việc thanh toán bằng tiền mặt. Với
chức năng này, tổng lượng tiền trong nền kinh tế phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc
mà Ngân hàng Nhà nước ấn định cho các Ngân hàng thương mại.
1.1.3 Những đặc điểm và hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại:
1.1.3.1 Những đặc điểm cơ bản của Ngân hàng thương mại:
Thứ nhất, vốn và tiền vừa là phương tiện, vừa là mục đích kinh doanh nhưng
đồng thời cũng là đối tượng kinh doanh của NHTM.
Thứ hai, NHTM kinh doanh củ yếu bằng vốn của người khác. Trong vốn hoạt
động, vốn tự có của ngân hàng chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, nên việc kinh doanh của ngân
hàng luôn gắn liền với một sự rủi ro và ngân hàng buộc phải chấp nhận một mức độ
mạo hiểm nhất định. Do vậy, Ngân hàng Nhà nước phải thiết lập một sự kiểm soát cả
về việc huy động và sử dụng vốn của NHTM.


Thứ ba, việc kinh doanh của ngân hàng có liên quan đến nhiều mặt, nhiều lĩnh
vực hoạt động và nhiều đối tượng khách hàng khác nhau.
Thứ tư, các NHTM hình thành nên một hệ thống có tính thống nhất cao. Mỗi
ngân hàng là một mắt xích trong hoạt động của thị trường liên ngân hàng, chúng vừa
cạnh tranh vừa phối hợp, hỗ trợ để cùng tồn tại và phát triển. Các chi nhánh ngân hàng
chịu sự điều khiển vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thành viên trở nên phức tạp, đôi
khi không có ý nghĩa.
Thứ năm, một trong những hoạt động kinh doanh chủ yếu và đặc biệt của ngân
hàng là “đi vay để cho vay”. Vì vậy, vốn huy động của ngân hàng vừa được xem là kết

Ngân hàng cấp tín dụng cho các tổ chức và cá nhân dưới các hình thức cho vay,
chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ khác có giá khác, bảo lãnh và các hình thức
khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
c) Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ:
Dịch vụ thanh toán: các ngân hàng thực hiện các dịch vụ thanh toán như cung
ứng các phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán, dịch vụ thu chi hộ…
Mở tài khoản: các ngân hàng được mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài
nước. Khách hàng được chọn một ngân hàng để mở tài khoản giao dịch chính.
Dịch vụ ngân quỹ: các ngân hàng được thực hiện dịch vụ kiểm điếm, thu và
phát tiền mặt cho khách hàng.
d) Những hoạt động dịch vụ khác:
Các Ngân hàng cung ứng các dịch vụ bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
Tham gia thị trường tiền tệ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Thực hiện dịch vụ uỷ thác và đại lý: Ngân hàng được quyền uỷ thác, nhận uỷ
thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản
lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng.
Cung ứng các dịch vụ như: tư vấn tài chính cho khách hàng, bảo quản hiện vật
quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ….
1.2 NỘI DUNG PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TRONG CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI:
1.2.1 Những quan điểm đánh giá hiệu quả hoạt động Ngân hàng thương mại:
Theo lý thuyết hệ thống, nếu xem NHTM như một hệ thống thì hiệu quả của nó
có thể được xem xét theo hai quan điểm:
Một là, hiệu quả được xem xét trên quan điểm biến đổi của đầu vào thành đầu
ra hay nói cách khác là khả năng sinh lời. Các NHTM đều hoạt động nhằm mục tiêu
lợi nhuận. Dưới áp lực phải hạ thấp chi phí trong điều kiện cạnh tranh với những chế
tài chính khác, quan điểm này thích hợp để đánh giá hiệu quả trong hoạt động của
ngân hàng.
Hai là, hiệu quả được xem xét theo xác suất hoạt động an toàn của ngân hàng,
đây chính là các quan điểm về rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Hoạt động của

tượng thường được biểu hiện trên nhiều mặt, nhiều khía cạnh tương ứng. Chính yêu cầu
này đòi hỏi trong quá trình phân tích cần kết hợp chặt chẽ giữa quá trình phân tích và đánh
giá tổng hợp. Trong quá trình phân tích hiệu quả cần quán triệt sâu sắc quan điểm toàn
diện bởi vì hoạt động ngân hàng không ngừng thay đổi theo thời gian và không gian. Khi
nghiên cứu không đầy đủ các sự kiện sẽ dẫn đến những kết luận phiến diện, chủ quan.
Phương pháp phân tích phản khoa học là cô lập các hiện tượng, các mặt để nghiên cứu,
hay chỉ căn cứ vào một số tài liệu không đầy đủ, không toàn diện và thiếu hệ thống.
Phân tích với những hoạt động có tính chất khác nhau phải sử dụng các phương
pháp khác nhau. Ngân hàng thương mại có nhiều hoạt động khác nhau và khi nền kinh tế
phát triển, nhu cầu của xã hội ngày càng đa dạng hơn thì hoạt động ngân hàng trở nên đa
dạng hơn, cung cấp ngày càng nhiều loại sản phẩm dịch vụ. Mỗi hoạt động có những đặc
thù riêng đòi hỏi có phương pháp phân tích thích hợp. Mỗi phương pháp phân tích có tác
dụng và ý nghĩa riêng, không thể sử dụng một cách máy móc trong mọi trường hợp.


Phân tích hiệu quả hoạt động Ngân hàng thương mại trong trạng thái vận động
và phát triển.
Bởi vì tình hình hoạt động của ngân hàng luôn thay đổi theo thời gian, NHTM là
một hệ thống luôn vận động và phát triển không ngừng do đó để đánh giá kết luận chuẩn
xác thì các phương pháp và nội dung phân tích cần kết hợp giữa trạng thái tĩnh và động,
xem xét sự thay đổi, biến chuyển qua nhiều thời kỳ để thấy rõ xu thế biến động. Vì vậy,
ngoài việc phân tích hiệu quả ở một thời điểm hay thời kỳ nào đó, cần phải hình thành
những phương pháp phân tích biến động theo thời gian và không gian. Chính nhờ phân
tích như thế, các quản trị gia sẽ đánh giá được tình hình hiệu quả qua nhiều thời kỳ, xác
định được quy luật biến động của hiệu quả theo thời gian và không gian.
Khi phân tích cần quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể. Vì mọi hiện tượng đều có
quá trình phát triển không ngừng, bản chất của hiện tượng không phải luôn cố định
nên nhiều trường hợp cùng mức độ biểu hiện như nhau nhưng trong điều kiện này
được đánh giá tốt song trong điều kiện khác được đánh giá không tốt.
Khi phân tích hiện tượng cần xuất phát từ thực tế khách quan. Phân tích hiệu

Tổng dư nợ trên tổng tài sản

Tổng thu nhập trên tổng tài sản

Nợ quá hạn trên tổng tài sản

Tổng chi phí trên tổng thu nhập

Tổng dư nợ trên vốn huy động

Tỷ suất lợi nhuận

Vốn huy động trên vốn tự có

Tỷ suất lợi nhuận sau thuế
trên tổng tài sản

Tỷ suất lợi nhuận sau thuế
trên vốn tự có

Hình 1-1: Hệ thống các chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt động của NHTM Việt Nam
a) Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả từng hoạt động:
Hoạt động của ngân hàng có nhiều loại với hiệu quả khác nhau. Do vậy, các
nhà quản trị Ngân hàng cần phải đo lường hiệu quả cho từng hoạt động. Hiện nay, các
nhà quản trị chú trọng đến các chủ tiêu phản ánh hiệu quả sau:
*Tổng dư nợ trên tổng tài sản: Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả tín dụng của một
đồng tài sản và xác định quy mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Công thức tính:
Tổng dư nợ
Tổng dư nợ trên tổng tài sản =

* Vốn huy động trên vốn tự có: Chỉ số này phản ánh khả năng và quy mô thu
hút vốn từ nền kinh tế của Ngân hàng thương mại.
Công thức tính:
Vốn huy động
Vốn huy động trên vốn tự có =
x 100%
Vốn tự có
Trong đó:
Vốn tự có được xác định là gồm có giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ,
một số tài sản “Nợ” khác của tổ chức tín dụng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
b) Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả toàn bộ hoạt động:
Ngoài việc đo lường hiệu quả của từng hoạt động, các quản trị còn tính toán
các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho tất cả các hoạt động. Hiện nay các Ngân hàng
thương mại dùng các chỉ tiêu sau:
* Tổng thu nhập trên tổng tài sản: Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng tổng
tài sản của Ngân hàng. Trị số của chỉ tiêu lớn phản ánh ngân hàng đã phân bổ tài sản
một cách hợp lý nhằm nâng cao lợi nhuận của ngân hàng.


Công thức tính:
Tổng thu nhập trên tổng tài sản

=

Tổng thu nhập
Tổng tài sản

x

100%

tỏ hiệu quả hoạt động của ngân hàng càng cao. ROA giúp nhà quản trị thấy được khả năng
bao quát của ngân hàng trong việc tạo ra thu nhập từ tài sản. ROA là thước đo hiệu quả đầu
tư của ngân hàng, vì mọi tài sản đều là những khoản đầu tư. Tất cả các loại tài sản như cho
vay, … đều sinh ra lãi ngoại trừ hai loại tài sản dự trữ tiền mặt và tài sản cố định.
ROA được sử dụng rộng rãi trong phân tích hiệu quả hoạt động và đánh giá tình
hình tài chính của ngân hàng.
* Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn tự có (ROE): là chỉ tiêu phản ánh hiệu
quả sử dụng vốn tự có của ngân hàng.
Công thức tính:
Lợi nhuận sau thuế
ROE
=
Vốn tự có


Chỉ tiêu ROE được sử dụng rộng rãi trong phân tích hiệu quả hoạt động nhằm
phản ánh hiệu quả sử dụng vốn tự có, đo lường hiệu quả sử dụng một đồng vốn tự có,
và đo lường khả năng lành mạnh của ngân hàng. Nếu ROE quá lớn so với ROA chứng
tỏ vốn tự có chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng nguồn vốn, cho thấy ngân hàng đã huy
động vốn nhiều để cho vay.
Phạm vi sử dụng chỉ tiêu ROE bị hạn chế, ít được sử dụng để phân tích hiệu
quả các ngân hàng thành viên. Bởi vì, vốn tự có của ngân hàng thành viên được điều
chuyển từ ngân hàng thành viên ngày sang ngân hàng thành viên khác một cách
thường xuyên nên việc tính toán chỉ tiêu này tại các chi nhánh của các NHTM thì
không phù hợp và có ý nghĩa.
1.2.3.2 Hệ thống các chỉ tiêu đo lường chi phí hoạt động:
Trong quá trình hoạt động của mình các ngân hàng phải bỏ ra một lượng chi phí
nhất định, mỗi hoạt động có một loại chi phí đặc thù riêng, cần sử dụng nhiều chỉ tiêu
khác nhau để đo lường chúng. Hiện nay các nhà quản trị ngân hàng đang sử dụng
những chỉ tiêu như trên hình 1-2 để đo lường chi phí.

tổ chức tín dụng khác ở trong nước và ngoài nước.
Chi trả lãi phát hành giấy tờ có giá: Gồm các khoản trả lãi cho các giấy tờ có
giá mà ngân hàng phát hành.
Chi phí khác: Gồm các khoản chi phí của ngân hàng ngoài các khoản chi phí
nói trên về hoạt động huy động vốn.
* Chi phí hoạt động tín dụng: là toàn bộ những chi phí phục vụ cho hoạt động
tín dụng của ngân hàng trong một thời kỳ nhất định gồm các khoản chi phí về thẩm
định dự án cho vay, thành lập các hội đồng xét duyệt vay…
* Chi phí hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: là toàn bộ những chi phí
phục vụ cho hoạt động thanh toán và ngân quỹ của ngân hàng trong một thời kỳ nhất
định gồm:
Chi về dịch vụ thanh toán: chi phí in các mẫu biểu dùng cho khách hàng, ngân
hàng, các khoản chi về quảng cáo…
Cước phí bưu điện về mạng viễn thông: chi thuê đường truyền viễn thông,
mạng Internet…
Chi về ngân quỹ: Gồm các khoản chi phí về vận chuyển, bốc xếp, xăng dầu
dùng cho vận chuyển, kiểm đếm phân loại, đóng gói, bảo vệ tiền, giấy tờ có giá và
phương tiện thanh toán thay tiền.
* Chi phí hoạt động khác: là toàn bộ những chi phí phục vụ cho hoạt động khác
ngoài ba hoạt động trên gồm:
Chi về tham gia thị trường tiền tệ: mua bán các giấy tờ có giá.
Chi về kinh doanh ngoại hối: lỗ kinh doanh ngoại tệ, vàng…phí dịch vụ thanh
toán ngoại tệ, mua bán các bản tin…
b) Các chỉ tiêu đo lường chi phí toàn bộ hoạt động:
* Quỹ lương: là toàn bộ tiền chi trả lương và những khoản phụ cấp khác mà ngân
hàng đã trả cho toàn thể cán bộ công nhân viên làm việc trong một thời kỳ nhất định.
* Tổng chi phí: là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những hao phí về lao động sống và
lao động vật hoá cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong một thời kỳ nhất định.
Chỉ tiêu tổng chi phí được sử dụng rộng rãi trong phân tích chi phí, là cơ sở tính
lợi nhuận và một số chỉ tiêu hiệu quả.


Thu từ hoạt động khác

Vốn huy động
Hình 1-3 Hệ thống các chỉ tiêu đo lường kết quả hoạt động của các NHTM Việt Nam


a) Các chỉ tiêu đo lường kết quả từng hoạt động
Ngân hàng thực hiện nhiều hoạt động khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu đa
dạng của xã hội. Chính vì vậy các nhà quản trị ngân hàng cần tính toán những chỉ tiêu
phù hợp để đo lường kết quả từng hoạt động. Tuy nhiên, hiện nay ngân hàng chỉ dùng
các chỉ tiêu sau:
* Doanh số cho vay: là bộ các khoản cho vay mà ngân hàng cho các tổ chức
kinh tế hay dân cư vay trong một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu này được sử dụng nhằm
phản ánh quy mô hoạt động ngân hàng. Doanh số cho vay không phản ánh mục đích
cuối cùng mà là bước trung gian trên con đường tìm kiếm lợi nhuận.
* Tổng dư nợ: là toàn bộ các khoản dư nợ tại một thời điểm nào đó, hay nói
cách khác là tổng lượng vốn ngân hàng cho các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức vay
nhưng chưa đến hạn hoàn trả hoặc đã đến hạn trả nhưng các tổ chức, cá nhân trên
không thể hoàn trả cho ngân hàng tính đến thời điểm nghiên cứu. Chỉ tiêu này được sử
dụng rộng rãi nhằm phản ánh quy mô hoạt động ngân hàng. Ngoài chỉ tiêu thời điểm,
các nhà phân tích còn cần tính các chỉ tiêu bình quân trong từng thời kỳ nhằm làm cơ
sở cho phân tích hiệu quả và một số chỉ tiêu phân tích khác.
Khi nghiên cứu chỉ tiêu tổng dư nợ, trong ngân hàng cần tính riêng chỉ tiêu nợ
quá hạn. Dư nợ quá hạn là tổng lượng vốn ngân hàng đã cho vay nhưng đến hạn,
khách hàng chưa có khả năng trả tính cho đến thời điểm nghiên cứu. Trong nợ quá hạn
cần phân biệt nợ quá hạn dưới 90 ngày, từ 91 đến 180 ngày, từ 181 đến 360 ngày và
nợ khó đòi. Nợ khó đòi là chỉ tiêu cảnh báo cho ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu
để thu hồi. Với cách tính chi tiết này, các nhà phân tích có thể tính nhiều chỉ tiêu như
tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ, tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ và một số chỉ tiêu

trong hoạt động huy động vốn của mình. Vì vậy, vốn huy động còn được xem là chỉ
tiêu kết quả hoạt động trung gian của hoạt động ngân hàng.
b) Các chỉ tiêu đo lường kết quả toàn bộ hoạt động:
Nhằm đo lường kết quả toàn bộ hoạt động kinh doanh, ngân hàng cần tính toán
nhiều chỉ tiêu khác nhau. Hiện nay, các nhà quản trị ngân hàng dùng các chỉ tiêu như sau:
* Tổng thu nhập: là toàn bộ các khoản thu từ các hoạt động khác nhau như hoạt
động tín dụng, hoạt động thanh toán và ngân quỹ và các hoạt động khác của ngân hàng
trong một thời kỳ nhất định.
Chỉ tiêu tổng thu nhập phản ánh kết quả trung gian của ngân hàng. Cơ cấu tổng
thu nhập có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Nỗ lực của các ngân hàng trong tìm
kiếm lợi nhuận là xác định một cơ cấu tổng thu nhập tối ưu.
* Lợi nhuận trước thuế: là toàn bộ kết quả thu được trong một thời kỳ nhất định
của ngân hàng sau khi trừ đi toàn bộ chi phí. Chỉ tiêu này được sử dụng rất phổ biến để
đánh giá kết quả hoạt động ngân hàng và được sử dụng để tính các chỉ tiêu phân tích khác.
* Lợi nhuận sau thuế: là kết quả còn lại sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
cho Nhà nước trong một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế phản ánh kết
quả hoạt động cuối cùng của ngân hàng và được sử dụng rộng rãi trong phân tích kết
quả và hiệu quả hoạt động ngân hàng.


Ngoài những chỉ tiêu phân tích hiệu quả hoạt động như đã trình bày, các nhà
quản trị ngân hàng còn xây dựng một số chỉ tiêu khác để phân tích đánh giá về tình
hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, mục tiêu chính của đề tài là
phân tích hiệu quả hoạt động của NHTM, nên không trình bày tất cả các chỉ tiêu mà
các nhà quản trị ngân hàng đề cập. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những chỉ tiêu hiệu
quả chủ yếu liên quan đến hoạt động của NHTM.
1.2.4 Các phương pháp sử dụng trong phân tích hiệu quả hoạt động NHTM
Các phương pháp sử dụng trong phân tích hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
cũng như trong ngân hàng, hiện nay các ngân hàng thương mại thường sử dụng các
phương pháp sau:

nội dung kinh tế của chỉ tiêu phân tích và mục đích phân tích để lựa chọn khoảng thời
gian cần chi tiết và chỉ tiêu phải chi tiết.
1.2.4.3 Phương pháp so sánh:
So sánh là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong phân tích để xác định mức
độ biến động, xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích. Vì vậy, để tiến hành so sánh
phải giải quyết những vấn đề cơ bản như: xác định số gốc để so sánh, xác định điều
kiện so sánh và xác định mục tiêu so sánh.
Tuỳ vào mục đích cụ thể của phân tích mà xác định tiêu chuẩn so sánh, tức là
lựa chọn chỉ tiêu gốc là căn cứ so sánh như:
- Sử dụng số liệu tài chính ở nhiều kỳ trước để đánh giá và dự báo.
- Sử dụng số liệu trung bình ngành để đánh giá sự tăng trưởng, phát triển.
- Sử dụng các số kế hoạch, số dự toán để đánh giá tình hình đạt các mục tiêu
trong hoạt động của ngân hàng trong năm.
Điều kiện so sánh yêu cầu các chỉ tiêu phân tích phải phản ánh cùng nội dung
kinh tế, có cùng phương pháp tính toán và có đơn vị đo lường như nhau.
Khi trình bày báo cáo dưới dạng so sánh nhằm xác định mức biến động tuyệt
đối và tương đối của từng chỉ tiêu qua các thời kỳ.
1.2.4.4 Phương pháp liên hệ:
Mọi kết quả kinh doanh đều có mối liên hệ mật thiết với nhau giữa các mặt, các
bộ phận….Để lượng hoá mối quan hệ đó, ngoài các phương pháp đã nêu trong phân
tích kinh tế còn sử dụng phổ biến các cách nghiên cứu liên hệ như: liên hệ cân đối, liên
hệ tuyến tính và liên hệ phi tuyến.
- Liên hệ cân đối: Cơ sở của phương pháp này là sự cân bằng về lượng giữa hai
mặt của các yếu tố và quá trình kinh doanh. Chẳng hạn như giữa tổng số tài sản và
tổng số nguồn vốn, giữa nguồn thu, huy động và tình hình sử dụng các loại vốn, các
quỹ,… Mối liên hệ cân đối vốn có về lượng của các yếu tố dẫn đến sự cân bằng cả về
mức biến động (chênh lệch) giữa các mặt của các yếu tố và quá trình kinh doanh. Từ
đó có thể xác định mức ảnh hưởng của các nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu phân tích
được biểu hiện dưới dạng “tổng số” hoặc “hiệu số” bằng liên hệ cân đối.
- Liên hệ trực tuyến: là mối liên hệ theo một hướng xác định giữa chỉ tiêu phân

Đây là phương pháp nghiên cứu các dữ liệu được sắp xếp theo thời gian nhằm
tìm ra quy luật về mối quan hệ giữa chúng. Mối quan hệ đó được biểu diễn thành một
phương trình (hay mô hình) gọi là phát triển hồi quy. Dựa vào phương trình đó có thẻ
giải thích bằng các kết quả lượng hoá về bản chất, hỗ trợ, củng cố các lý thuyết và dự
báo tương lai.
1.2.5 Tổ chức công tác phân tích hiệu quả hoạt động NHTM:
Phân tích hiệu quả hoạt động là một trong những nội dung của phân tích hoạt
động kinh doanh trong doanh nghiệp nói chung và trong ngân hàng nói riêng, vì vậy tổ
chức công tác phân hiệu quả nằm trong nội dung của tổ chức công tác phân tích hoạt
động kinh doanh.


Công tác phân tích hoạt động kinh doanh nói chung bao gồm các bước sau:
Bước 1: Lập kế hoạch phân tích. Đây là khâu đầu tiên của công tác phân tích.
Nội dung chủ yếu của kế hoạch phân tích phải chỉ rõ nội dung cần phân tích, phạm vi
về thời gian phân tích, dự kiến nhân sự, thời hạn phân tích và dự kiến kinh phí phục vụ
phân tích.
Bước 2: Sưu tầm, lựa chọn và kiểm tra số liệu, tài liệu phân tích, số liệu và tài
liệu được sưu tầm, lựa chọn phải phù hợp với nội dung phân tích. Phải có sự kiểm tra
đối chiếu để đảm bảo tính chính xác và thống nhất của các thông tin phục vụ phân tích.
Bước 3: Xử lý số liệu và tính toán các chỉ tiêu phân tích, xác định mức độ ảnh
hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh tế. Đây là bước cơ bản nhất quyết định chất
lượng của công tác phân tích.
Bước 4: Lập báo cáo phân tích. Báo cáo phân tích thể hiện nội dung và kết quả
phân tích bằng lời văn, phải bao gồm đầy đủ các kết luận về các ưu, nhược điểm chủ
yếu, những nguyên nhân cơ bản và đề xuất các biện pháp quản lý.
1.2.6 Nguồn thông tin làm cơ sở tính toán và phân tích:
Các báo cáo tài chính và báo cáo tình hình hoạt động của ngân hàng chính là
nguồn thông tin chủ yếu cho việc tính toán và phân tích tình hình hoạt động cũng như
hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Cụ thể bao gồm các báo cáo sau:

ngân hàng phải luôn nỗ lực để đạt được các mục tiêu trong hoạt động. Điều này đòi
hỏi các nhà quản trị phải được cung cấp những thông tin chính xác và đầy đủ nhất về
tình hình hoạt động cũng như hiệu quả của các hoạt động của ngân hàng, để từ đó có
thể ra các quyết định, chiến lược đúng đắn và phù hợp cho sự tồn tại và phát triển của
ngân hàng. Do vậy tầm quan trọng của việc phân tích hiệu quả hoạt động của ngân
hàng được đặt ra một cách cấp thiết hơn bao giờ hết.
Qua nghiên cứu về phân tích hiệu quả hoạt động của NHTM hiện nay, bên cạnh
những ưu điểm đạt được vẫn còn những hạn chế, thiếu sót chưa hoàn chỉnh cần phải
được tiếp tục hoàn thiện.
Để có sự nhìn nhận đúng đắn về thực tế phân tích hiệu quả hoạt động của các
NHTM hiện nay, đề tài đi vào phân tích hiệu quả hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng
Công thương Thành phố Đà Nẵng.


CHƯƠNG II
HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI HIỆN NAY
2.1 SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Trong những năm qua hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những đổi mới và
phát triển đáng kể, có thể nói hoạt động của ngân hàng đã có những đóng góp trong sự
nghiệp đổi mới và phát triển của đất nước. Bên cạnh những kết quả đạt được hệ thống
ngân hàng Việt Nam cũng bộc lộ nhiều yếu kém trong nhiều mặt, đặc biệt là việc quản
lý hoạt động của các NHTM. Những yếu kém đó là khó tránh khỏi khi mà các lý
thuyết cũng như kinh nghiệm về quản lý các NHTM chưa được nghiên cứu một cách
khoa học và đầy đủ. Để có thể quản lý các hoạt động của ngân hàng một cách hiệu
quả, các nhà quản trị ngân hàng cần có những công cụ quản lý đắc lực, mà một trong
những công cụ cần thiết đó là hệ thống thông tin phản ánh hoạt động cũng như hiệu
quả hoạt động của ngân hàng. Do vậy cần thiết phải xây dựng một hệ thống phân tích
hiệu quả hoạt động với những chỉ tiêu và phương pháp phù hợp; khoa học để đáp ứng

các NHTM.
Đối với các chỉ tiêu đo lường hiệu quả từng hoạt động luận văn giữ nguyên các
chỉ tiêu như: Tổng dư nợ trên tổng tài sản, Nợ quá hạn trên tổng dư nợ, Tổng dư nợ
trên vốn huy động, Vốn huy động trên vốn tự có, ngoài ra đề tài bổ sung thêm chỉ tiêu
thu nhập lãi suất ròng trên tổng tài sản sinh lời bình quân, chỉ tiêu thu nhập lãi suất
ròng trên tổng thu nhập, chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn huy động.
Đối với các chỉ tiêu đo lường hiệu quả toàn bộ NHTM, đề tài giữ nguyên các
chỉ tiêu như đã trình bày, điều chỉnh công thức tính cho các chỉ tiêu ROA, ROE và bổ
sung thêm chỉ tiêu tỷ lệ thu nhập lãi cận biên, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên, tỷ lệ
thu nhập d cận biên, tỷ lệ hiệu suất sử dụng tài sản tỷ lệ nhập ròng trên tổng thu nhập.
Để hệ thống và phản ánh rõ hơn các chỉ tiêu phân tích hiệu quả hoạt động của
các NHTM đề tài thể hiện các chỉ tiêu trên hình 2-1.


Hệ thống các chỉ tiêu đo lường hiệu quả
hoạt động NHTM Việt Nam

Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả
từng hoạt động

Tổng dư nợ trên vốn huy động

Tổng dư nợ trên tổng tài sản

Nợ quá hạn trên tổng dư nợ

Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả
toàn bộ hoạt động

Tổng thu nhập trên tổng tài sản



2.2.1. Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả từng hoạt động
* Tổng dư nợ trên tổng tài sản: Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả tín dụng của
một đồng tài sản và xác định quy mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Công thức tính:
Tổng dư nợ
Tổng dư nợ trên tổng tài sản =
x 100 (%)
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này thường được các NHTM dùng để so sánh, đánh giá giữa các ngân
hàng thành viên trong hệ thống, trên cơ sở chỉ tiêu này sẽ biết được khả năng khai thác
và mở rộng hoạt động cho vay trên các địa phương khác nhau, từ đó giúp các nhà
hoạch định ngân hàng đưa ra các quyết nên đầu tư vào đâu thì có hiệu quả nhất.
* Nợ quá hạn trên tổng dư nợ: Chỉ tiêu này đo lường chất lượng tín dụng của
các ngân hàng. Chỉ số này càng nhỏ chứng tỏ chất lượng tín dụng của các ngân hàng
càng cao.
Công thức tính:
Nợ quá hạn
Nợ quá hạn trên tổng dư nợ
=
x 100 (%)
Tổng dư nợ
Tuy nhiên, trong nợ quá hạn các NHTM cần phân biệt nợ quá hạn dưới 90
ngày, từ 91 đến 180 ngày, từ 181 đến 360 ngày và nợ khó đòi. Nợ khó đòi là chỉ tiêu
cảnh báo cho ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để thu hồi. Với cách tính chi tiết
này, các nhà phân tích có thể tính nhiều chỉ tiêu như tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ,
tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ và một số chỉ tiêu khác nhằm đánh giá hiệu quả củ
hoạt động của tín dụng. Những chỉ tiêu này có quan hệ với nhau rất chặt chẽ và phản
ánh các mức độ rủi ro tín dụng khác nhau. Tuy rủi ro tín dụng là không tránh khỏi hoạt


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status