Quá trình cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam - Pdf 35

PHẦN MỞ ĐẦU
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã có một quá trình hơn 20 năm với
những kinh nghiệm rất phong phú ở nhiều thời kì. Trong môi trường kinh doanh
mới, với không ít khó khăn nhưng nhiều doanh nghiệp đã trụ được tại Việt Nam ,
vượt qua thử thách và thành công.
Khi chính sách Đổi mới bắt đầu được áp dụng, với những chính sách mới về đầu tư
nước ngoài không ngừng được cải thiện của Chính phủ, Việt Nam được các nhà đầu
tư nước ngoài đánh giá cao về tính ổn định và độ an toàn. Những yếu tố này đang
thực sự quan trọng đối với những khoản đầu tư lớn và dài hạn.
Không phải ngẫu nhiên mà thời gian gần đây, sự chú ý của doanh nghiệp quốc tế
tăng cao đối với Việt Nam . Với mức tăng trưởng GDP rất cao trong khu vực, cùng
với các ổn định về chính trị xã hội thì rõ ràng đây là những điều kiện thuận lợi cho
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam .
Trong giai đoạn phát triển, hiện nay đang diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các
quốc gia nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, giữa các doanh nghiệp trong
nước với nhau và với doanh nghiệp nước ngoài. Trong cuộc cạnh tranh này, môi
trường đầu tư mà Nhà nước tạo ra là yếu tố tiên quyết. Chính phủ Việt Nam đã làm
tất cả để môi trường Đầu tư ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, thông thoáng, minh
bạch hơn và cạnh tranh hơn. Tuy nhiên, Việt Nam hiện còn gặp nhiều khó khăn,
thách thức liên quan đến hạ tầng kinh tế còn nhiều yếu kém, chi phí sản xuất gia
tăng trong bối cảnh giá cả gia tăng chưa có dấu hiệu suy giảm; khan hiếm lao động
có tay nghề và cán bộ có trình độ quản lý tiên tiến, tổ chức và cán bộ ở các địa
phương còn nhiều bất cập, thủ tục hành chính còn nhiều phức tạp, gây phiên hà,
nhũng nhiễu nhà đầu tư và doanh nghiệp.
Trước những khó khăn còn tồn tại thì Chính Phủ đã có những biện pháp gì để cải
thiện môi trường đầu tư. Từ đó em quyết định lựa chọn nghiên cúu đề tài:
“ Quá trình cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam ”Đề tài gồm ba chương:
Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và môi trường đầu tư trực

lơi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà
đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại
nền kinh tế khác đó.
Hội nghị Liên Hợp Quốc về TM và phát triển UNCTAD cũng đưa ra một khái niệm
về FDI. Theo đó, nguồn vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc thông
qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh
nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh
nghiệp FDI, FDI gồm có 3 bộ phận: vốn cổ phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản
vay trong nội bộ công ty.
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa: đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại
nước này hoặc mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một
khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh
hưởng quyết định đối với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong
thực thể kinh tế ấy.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: một doanh nghiệp
đầu tư trực tiếp là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách
pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có
quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền
kiểm soát công ty. Tuy nhiên không phải hầu hết các quốc gia đều sử dụng mốc
10% làm mốc xác định FDI. Trong thực tế có những trường hợp tỉ lệ sở hữu tài sản
trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn 10% nhưng họ vẫn được quyền điều
hành quản lý doanh nghiệp, trong khi nhiều lúc lớn hơn vẫn chỉ là người đầu tư gián
tiếp.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước
ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu
tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để
được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc
gia đó, với mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình”.
Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế có thể hiểu là tài sản hữu hình
(máy móc, thiêt bị, quy trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp đồng và giấy

Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được kí kết giữa đại diện có thẩm quyền
của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, quy định từ việc thực hiện phân
chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên.
Đặc điểm là các bên kí kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong quá trình kinh doanh
các bên hợp doanh có thể thành lập ban điều phối để theo dõi, giám sát việc thực
hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Phân chia kết quả kinh doanh: hình thức hợp
doanh không phân phối lợi nhuận và chia sẻ rủi ro mà phân chia kết quả kinh doanh
chung theo tỷ lệ góp vốn hoặc theo thoả thuận giữa các bên. Các bên hợp doanh
thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước sở tại một cách riêng rẽ. Pháp lý hợp
doanh là một thực thể kinh doanh hoạt động theo luật pháp nước sở tại, chịu sự điều
chỉnh của pháp luật nước sở tại. Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên hơp doanh được
ghi trong hợp đồng hợp tác kinh doanh.
1.1.2.4. Đầu tư theo hợp đồng BOT
BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao) là một thuật ngữ để chỉ một số mô hình
hay một cấu trúc sử dụng đầu tư tư nhân để thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng vẫn
được dành riêng cho khu vực nhà nước. Trong một dự án xây dựng BOT, một
doanh nghiệp tư nhân được đặc quyền xây dựng và vận hành một công trình mà
thường do chính phủ thực hiện. Công trình này có thể là nhà máy điện, sân bay, cầu,
cầu đường… Vào cuối giai đoạn vận hành doanh nghiệp tư nhân sẽ chuyển quyền
sở hữu dự án về cho chính phủ. Ngoài hợp đồng BOT còn có BTO, BT.
Hợp đồng BOT là văn bản kí kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan có
thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng (kể cả
mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá công trình) và kinh doanh trong một thời gian nhất
định để thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý, sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn
bộ công trình cho nước chủ nhà.
Hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh BTO và hợp đồng xây dựng chuyển
giao BT, được hình thành tương tự như hợp đồng BOT nhưng có điểm khác là: đối
với hợp đồng BTO sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư nước ngoài chuyển
giao lại cho nước chủ nhà và được Chính phủ nước chủ nhà dành cho quyền kinh
doanh công trình đó hoặc công trình khác trong một thời gian đủ để hoàn lại toàn bộ

chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi
vốn góp vào doanh nghiệp, cổ đông có thể là tổ chức cá nhân với số lượng tối đa
không hạn chế, nhưng phải đáp ứng yêu cầu về số cổ đông tối thiểu. Đặc trưng của
công ty cổ phần là nó có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng và các cổ
đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác.
Cơ cấu tổ chức, công ty cổ phần phải có đại hội cổ đông, hội đồng quản trị và giám
đốc. Thông thường ở nhiều nước trên thế giới, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu
trên 10% số cổ phiếu thường có quyền tham gia giám sát quản lý hoạt dộng của cty
cổ phần. Đại hôi cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết là cơ quan quyết
định cao nhất của công ty cổ phần.
Ở một số nước khác, cty cổ phần hữu hạn có vốn đầu nước ngoài được thành lập
theo cách: thành lập mới, cổ phần hoá doanh nghiệp FDI (doanh nghiệp liên doanh
và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) đang hoạt động, mua lại cổ phần của doanh
nghiệp trong nước cổ phần hoá.
1.1.2.7. Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài
Hình thức này được phân biệt với hình thức công ty con 100% vốn nước ngoài ở
chỗ chi nhánh không được coi là một pháp nhân độc lập trong khi công ty con
thường là một pháp nhân độc lập. Trách nhiệm của công ty con thường giới hạn
trong phạm vi tài sản ở nước sở tại, trong khi trách nhiệm của chi nhánh theo quy
định của một số nước, không chỉ giới hạn trong phạm vi tài sản của chi nhánh, mà
còn được mở rộng đến cả phần tài sản của công ty mẹ ở nước ngoài. Chi nhánh
được phép khấu trừ các khoản lỗ ở nước sở tại và các khoản chi phí thành lập ban
đầu vào các khoản thu nhập của công ty mẹ tại nước ngoài. Ngoài ra chi nhánh còn
được khấu trừ một phần các chi phí quản lý của công ty mẹ ở nước ngoài vào phần
thu nhập chịu thuế ở nước sở tại.
Việc thành lập chi nhánh thường đơn giản hơn so với việc thành lập công ty con.
Do không thành lập 1 pháp nhân độc lập, việc thành lập chi nhánh không phải tuân
thủ theo các quy định về thành lập công ty, thường chỉ thông qua việc đăng kí tại
các cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà.
1.1.2.8. Hình thức công ty hợp danh

1.1.3.1. Tác động tích cực của FDI.
* Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã kịp thời bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư
phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn ngoại tệ
của các nước nhận đầu tư, đặc biệt là đối với các nước kém phát triển.
Hầu hết các nước kém phát triển đều rơi vào cái “vòng luẩn quẩn”. Đó là: Thu nhập
thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp và rồi hậu quả thu lại là thu nhập
thấp. Tình trạng luẩn quẩn này chính là điểm nút khó khăn mà các nước này phải
vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình trạng
trì trệ của nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra điểm đột phá chính xác.
Trở ngại lớn nhất để thực hiện điều đó đối với các nước kém phát triển là vốn đầu
tư và kỹ thuật. Vốn đầu tư là cơ sở tạo ra công ăn việc làm trong nước, đổi mới
công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động vv...Từ đó tạo tiền đề tăng thu nhập,
tăng tích lũy cho sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên để tạo ra vốn cho nền kinh tế chỉ trông chờ vào vốn nội bộ thì hậu quả
khó tránh khỏi là sẽ tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Do đó vốn nước
ngoài sẽ là một “cú hích” để góp phần đột phá vào cái “vòng luẩn quẩn” đó. Đặc
biệt là FDI: nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây nợ
cho các nước nhận đầu tư. Không như vốn vay nước đầu tư chỉ nhận một phần lợi
nhuận thích đáng khi công trình đầu tư hoạt động có hiệu quả. Hơn nữa lượng vốn
này còn có lợi thế hơn nguồn vốn vay ở chỗ. Thời hạn trả nợ vốn vay thường cố
định và đôi khi quá ngắn so với một số dự án đầu tư, còn thời hạn vốn FDI thì linh
hoạt hơn.
* Chuyển giao công nghệ.
Lợi ích quan trọng mà FDI mang lại đó là công nghệ khoa học hiện đại, kỹ sảo
chuyên môn, trình độ quản lý tiên tiến. Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư
không chỉ đưa vào nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy
móc thiết bị, nguyên vật liệu...(hay còn gọi là phần cứng), tri thức khoa học, bí
quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị thường ...(hay còn gọi là phần mềm.) Do vậy
đứng về lâu dài đây chính là lợi ích căn bản nhất đối với nước nhận đầu tư. FDI có

hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với sự phân
công lao động quốc tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế của nước phù hợp với trình
độ chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài.
Ngược lại, chính hoạt động đầu tư lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình dịch
chuyển cơ cấu kinh tế. Bởi vì: Một là, thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới ở các nước nhận đầu tư.
Hai là, đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần vào sự phát triển nhanh chóng trình độ
kỹ thuật công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao
động ở một số ngành này và tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế. Ba là, một số
ngành được kích thích phát triển bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng cũng có
nhiều ngành bị mai một đi, rồi đi đến chỗ bị xóa bỏ.
* Một số tác động khác.
Ngoài những tác động trên, đầư tư trực tiếp nước ngoài còn có một số tác động sau:
- Góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế của
các đơn vị đầu tư và tiền thu từ việc cho thuê đất ....
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đóng góp cải thiện cán cân quốc tế cho nước tiếp
nhận đầu tư. Bởi vì hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là sản xuất ra các
sản phẩm hướng vào xuất khẩu phần đóng góp của tư bản nước ngoài và việc phát
triển xuất khẩu là khá lớn trong nhiều nước đang phát triển. Cùng với việc tăng khả
năng xuất khẩu hàng hóa, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn mở rộng thị trường cả
trong nước và ngoài nước. Đa số các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đều có
phương án bao tiêu sản phẩm. Đây gọi là hiên tượng “hai chiều” đang trở nên khá
phổ biến ở nhiều nước đang phát triển hiện nay.
- Về mặt xã hội, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, thu
hút một khối lượng đáng kể người lao động ở nước nhận đầu tư vào làm việc tại các
đơn vị của đầu tư nước ngoài. Điều đó góp phần đáng kể vào việc làm giảm bớt nạn
thất nghiệp vốn là một tình trạng nan giải của nhiều quốc gia. Đặc biệt là đối với
các nước đang phát triển, nơi có lực lượng lao động rất phong phú nhưng không có
điều kiện khai thác và sử dụng được, thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là
chìa khóa quan trọng để giải quyết vấn đề trên đây. Vì đầu tư trực tiếp nước ngoài

đã làm nảy sinh nỗi lo rằng các công ty này sẽ tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế
của nước nhận đầu tư vào vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ hàng hóa của các
công ty xuyên quốc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có đóng góp phần vốn bổ sung
quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế và thực hiện chuyển giao công nghệ cho
các nước nhận đầu tư. Đồng thời cũng thông qua các công ty xuyên quốc gia là
những bên đối tác nước ngoài để chúng ta có thể tiêu thụ hàng hóa vì các công ty
này nắm hầu hết các kênh tiêu thụ hàng hóa từ nước này sang nước khác. Vậy nếu
càng dựa nhiều vào đầu tư trực tiếp nước ngoài, thì sự phụ thuộc của nền kinh tế
vào các nước công nghiệp phát triển càng lớn. Và nếu nền kinh tế dựa nhiều vào
đầu tư trực tiếp nước ngoài thì sự phát triển của nó chỉ là một phồn vinh giả tạo. Sự
phồn vinh có được bằng cái của người khác.
Nhưng vấn đề này có xảy ra hay không còn phụ thuộc vào chính sách và khả năng
tiếp nhận kỹ thuật của từng nước. Nếu nước nào tranh thủ được vốn, kỹ thuật và có
ảnh hưởng tích cực ban đầu của đầu tư trực tiếp nước ngoài mà nhanh chóng phát
triển công nghệ nội tại, tạo nguồn tích lũy trong nước, đa dạng hóa thị trrường tiêu
thụ và tiếp nhận kỹ thuật mới cũng như đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai trong
nước thì sẽ giảm được rất nhiều sự phụ thuộc của các công ty đa quốc gia.
* Chi phí cho việc thu hút FDI và sản xuất không thích hợp.
Một là: Chi phí của việc thu hút FDI.
Để thu hút FDI, các nước đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư như
là giảm thuế hoặc miễn thuế trong một thời gian khá dài cho phần lớn các dự án đầu
tư nước ngoài. Hoặc việc giảm tiền cho họ cho việc thuê đất, nhà xưởng và một số
các dịch vụ trong nước là rất thấp so với các nhà đầu tư trong nước. Hay trong một
số lĩnh vực họ được Nhà nước bảo hộ thuế quan.... Và như vậy đôi khi lợi ích của
nhà đầu tư có thể vượt lợi ích mà nước chủ nhà nhận được. Thế mà, các nhà đầu tư
còn tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế cho các yếu tố đầu vào. Các nhà đầu tư
thường tính giá cao cho các nguyên vật liệu, bán thành phẩm, máy móc thiết bị mà
họ nhập vào để thực hiện đầu tư. Việc làm này mang lại nhiều lợi ích cho các nhà
đầu tư, chẳng hạn như trốn được thuế, hoặc giấu được một số lợi nhuận thực tế mà
họ kiếm được. Từ đó hạn chế cạnh tranh của các nhà đầu tư khác xâm nhập vào thị

nghiệp. Môi trường đầu tư bao gồm các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tự
nhiên, công nghệ. Trong đó, chính sách của Chính phủ, các yếu tố về địa lý, về quy
mô thị trường là quan trọng.
Môi trường đầu tư tốt khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, giảm thấp chi phí và
rủi ro. Một môi trường đầu tư tốt không chỉ mang lại lợi nhuận cao cho doanh
nghiệp mà còn nâng cao hiệu quả hoạt động trên phạm vi toàn xã hội
Theo nghĩa chung nhất: môi trường đầu tư là tổng hoà các yếu tố bên ngoài liên
quan đến hoạt động đầu tư.
Môi trường đầu tư hấp dẫn phải là một môi trường có hiệu quả đầu tư cao, mức độ rủi
ro thấp. Điều này lại chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như: chính sách, cơ chế ưu đãi
đầu tư của nước chủ nhà, điều kiện phát triển về cơ sở hạ tầng kinh tế, mức độ hoàn
thiện về thể chế hành chính - pháp lý, khả năng ổn định về mặt chính trị - xã hội, độ mở
của nền kinh tế, sự phát triển của hệ thống thị trường ... Các nhân tố trên có mối quan
hệ và tác động qua lại lẫn nhau, vì vậy, để nâng cao chất lượng và hiệu quả của môi
trường đầu tư, nhất thiết phải quan tâm xử lý đồng bộ các nhân tố ảnh hưởng trên
1.2.2. Phân loại môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Có nhiều cách phân loại môi trường đầu tư, song theo nhiều nhà kinh tế, môi trường
đầu tư có thể chia ra môi trường cứng và môi trường mềm. Môi trường cứng liên
quan đến các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển kinh tế,
gồm: hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông (đường sá, cầu cảng hàng không, cảng
biển...), hệ thống thông tin liên lạc, năng lượng... Môi trường mềm bao gồm: hệ
thống các dịch vụ hành chính, dịch vụ pháp lý liên quan đến hoạt động đầu tư (đặc
biệt các vấn đề liên quan đến chế độ đối xử và giải quyết các tranh chấp, khiếu nại);
hệ thống các dịch vụ tài chính - ngân hàng, kế toán và kiểm toán...
Môi trường đầu tư nước ngoài có thể thay đổi và chịu sự chi phối của Chính phủ nước
tiếp nhận đầu tư, thay đổi khi nước tiếp nhận đầu tư ký kết hoặc gia nhập Hiệp định
khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương, khu vực và địa phương. Môi trường đầu
tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu được xác định theo hai cách tiếp cận sau:
- Thứ nhất, dựa vào các nhóm nhận tố chính tác động đối với hoạt động đầu tư, môi
trường đầu tư theo cách tiếp cận này bao gồm các nhóm yếu tố chính sau: khung


Biểu 1.2: Minh họa môi trường đầu tư trực tiếp tại nước tiếp nhận đầu tư
Nguồn: UNTAD, WIR 1998, tr 91.
1.2.3. Môi trường đầu tư của nước chủ nhà
1.2.3.1.Tình hình chính trị
Ổn định chính trị là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự thu hút đầu tư nước
ngoài bởi nó đảm bảo việc thực hiện các cam kết của chính phủ trong các vấn đề sở
hữu vốn đầu tư, hoạch định các chính sách ưu tiên, định hướng phát triển đầu tư của
một nước, ổn định chính trị sẽ tạo ra sự ổn định về kinh tế xã hội và giảm bớt độ rủi
ro cho các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài.
Tình hình chính trị không ổn định sẽ dẫn tới việc bất ổn định về chính sách và
đường lối phát triển không nhất quán. Chính phủ đương thời cam kết không quốc
hữu hoá tài sản, vốn của người nước ngoài nhưng chính phủ mới chưa chắc đã
thống nhất với quan điểm này và tiến hành những thay đổi khiến quyền sở hữu vốn
của người nước ngoài bị đe doạ. Hiện tượng này đã từng xảy ra ở một số nước Châu
Phi, châu Á và châu Mỹ như ChiLe , Philippines …
Hoặc như ở một số nước, khi chính phủ mới lên lãnh đạo sẽ thay đổi định hướng
đầu tư của nước chủ nhà (thay đổi lĩnh vực khuyến khích, ưu tiên, thay đổi chiến
lược xuất nhập khẩu…) khiến các nhà đầu tư ở trong tình trạng rút lui không được
mà tiến hành tiếp cũng không xong và phải chấp nhận thua lỗ.
1.2.3.2. Môi trường luật pháp
Quá trình đầu tư liên quan đến rất nhiều lĩnh vực hoạt động trong một thời gian dài,
nên một môi trường pháp lý ổn định và có hiệu lực là một yếu tố quan trọng để
quản lý và thực hiện đầu tư một cách có hiệu quả. Môi trường này bao gồm các
chính sách, qui định, luật cần thiết đảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn, chồng
chéo nhau và có tính hiệu lực cao.
- Chính sách thuế: bao gồm các nội dung liên quan đến các loại thuế, mức thuế, thời
gian miễn giảm thuế, thời gian khấu hao và các điều kiện ưu đãi khác.
- Chính sách lệ phí: qui định về các khoản tiền phải nôp như phí dịch vụ cấp giấy
phép, dịch vụ cơ sở hạ tầng (điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc, thuê đất…).

ngoài, khiến tăng chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm không cao .
- Chất lượng các dịch vụ khác như cung ứng lao động, tài chính cũng là yếu tố rất
cần thiết để tu hút các nhà ĐTNN.
- Tính cạnh tranh của nước chủ nhà cao sẽ giảm được rào cản đối với ĐTNN, các
nhà đầu tư có thể lựa chọn lĩnh vự đầu tư để phát huy lợi thế so sánh của mình.
1.2.3.5. Đặc điểm phát triển kinh tế xã hội
Các yếu tố về ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán, thị hiếu thẩm mĩ, hệ thống
giáo dục , đạo đức… cũng có tác động không nhỏ tới việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư.
Sự bất đồng về ngôn ngữ và văn hoá trong một số trường hợp đã mang lại những
hậu quả không lường trong kinh doanh.Thẩm mĩ dân tộc của nước chủ nhà là một
yếu tố quan trọng để chủ ĐTNN chọn các hình thức quảng cáo và bao bì sản phẩm.
Một ngân hàng của Anh thiết kế màu xanh lá cây trong biểu tượng của mình, nhưng
khi đặt chi nhánh hoạt động tại Singapore đã phải thay đổi màu bởi ở nước này màu
xanh lá cây bị coi là màu tang tóc. Tương tự, người dân Trung Quốc đặc biệt có
cảm tình với màu đỏ nên khi quảng cáo sản phẩm, các nhà ĐTNN cũng tăng thêm
lượng màu này.
Trình độ phát triển giáo dục đào tạo sẽ quyết định chất lựơng đội ngũ lao động. Mặc
dù sau khi tuyển dụng lao động thì đại đa số các doanh nghiệp FDI phải đào tạo lại,
nhưng sự khác biệt quá lớn trong quan điểm cũng như nội dung đao tạo ở nước
nhận đầu tư và nhu cầu của doanh nghiệp sẽ làm hạn chế hiệu quả đầu tư và làm
nản lòng những nhà đầu tư có nhu cầu sử dụng nhiều lao động.
1.2.4. Môi trường ở nước chủ đầu tư
1.2.4.1. Thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô
Những chính sách như tài chính – tiền tệ, xuất nhập khẩu và quản lý ngoại hối của
nước đầu tư ảnh hưởng rất lớn đến luồng đầu tư trực tiếp của nước này sang các
nước khác.
Sự thay đổi các chính sách tài chính-tiền tệ tác động mạnh đến lãi suất, làm tăng
hoặc giảm khả năng tạo lợi nhuận của các nhà đầu tư. Thay đổi chính sách tiền tệ sẽ
làm ảnh hưởng đến lạm phát, lạm phát cao có nghĩa là đồng nội tệ mất giá khiến
hoạt động đầu tư ra nước ngoài giảm bởi để mua được cùng một lượng dịch vụ đầu

Trình độ khoa học công nghệ thông qua các công việc nghiên cứu và phát triển (R
& D) luôn là một lợi thế cho nước đầu tư. Một nước có khả năng nghiên cứu và
phát triển cao thường là nước tạo ra công nghệ nguồn và quyết định giá cả công
nghệ trên thị trường. Các công nghệ nguồn tạo ra lợi thế cạnh tranh độc quyền và
cần sản xuất với qui mô lớn, đây chính là yếu tố quyết định các TNCs đầu tư ra
nước ngoài. Những nước đầu tư ra nước ngoài lớn cũng thường là những nước
chiếm tỉ trọng cung cấp công nghệ cao trên thế giới
1.2.5. Môi trường đầu tư quốc tế
1.2.5.1.Xu hướng đối thoại giữa các nước
Xu hướng đối thoại chính trị được hiểu là việc giải quyết xung đột giữa các nước
được thực hiện bằng đàm phán, là yếu tố quan trọng, tác động tích cực tới luồng
đầu tư trên thế giới.
1.2.5.2. Liên kết khu vực
Sự tạo ra các khối thị trường chung tạo ra sự thuận lợi cho các TNCs chuyển địa
điểm sản xuất và phân phối giữa các nước thành viên của khối, nhờ đó thúc đẩy
dòng đầu tư… Tuy nhiên khối thị trường chung này không đưa ra những chinh sách
trực tiếp đối với đầu tư nước ngoài đặc biệt là FDI, song thông qua các chính sách
tự do hoá thương mại đã xoá bỏ rào cản giữa các nước.
Việc liên kết khu vực tạo sự phát triển ổn định cho các nước thành viên, đồng thời
buộc các nước cam kết những chính sách tự do hoá đầu tư, tạo môi trường đầu tư
thuận lợi nhằm thu hút đầu tư nước ngoài
1.2.5.3. Tăng trưởng nhanh của các TNCs
Phần lớn hoạt động ĐTNN được thực hiện do các TNCs nên tốc độ tăng trưởng của
các TNCs ảnh hưởng đến động thái của dòng FDI. TNCs bao gồm công ty mẹ và
các công ty con ở các nước trên thế giới. Công ty mẹ là công ty kiểm soát toàn bộ
tài sản của minh tại nước sở hữu. Có 3 dạng công ty con: Dạng thứ nhất là công ty
phụ thuộc – hơn 50% tài sản do chủ đầu tư ở công ty mẹ nắm quyền sở hữu, họ có
quyền chỉ định hoặc bãi nhiệm các thành viên bộ máy tổ chức và điều hành của
công ty con. Dạng thứ hai là công ty liên kết, chủ đầu tư của công ty mẹ chỉ nắm
một tỷ lệ nhỏ tài sản và có quyền hạn ít hơn so với dạng thứ nhất. Dạng công ty con

Sự ổn định của môi trường vĩ mô là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi
đầu tư. Đối với vốn nước ngoài, điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ
hết. Để thu hút được vốn FDI, nền kinh tế nội địa phải là nơi an toàn cho sự vận
động của tiền vốn đầu tư, sau đó là nơi có năng lực sinh lợi cao hơn những nơi
khác. Sự an toàn của dòng vốn đòi hỏi môi trường vĩ mô ổn định, không gặp phải
những rủi ro do các yếu tố chính trị xã hội gây ra.
Một nền kinh tế ổn định vững chắc nhưng không phải và không thể là sự ổn định
bất động, tức là sự ổn định hàm chứa trong đó khả năng trì trệ kéo dài và dẫn tới
khủng hoảng. Một sự ổn định được coi là vững chắc nhưng bất động chỉ có thể là sự
ổn định ngắn hạn.
Tạo ra và duy trì triển vọng tăng trưởng nhanh, lâu bền là một cộng việc đòi hỏi có
sự nỗ lực rất lớn của chính phủ trong việc điều hành kinh tế vĩ mô. Việc tạo lập môi
trường kinh tế vĩ mô ổn định cũng yêu cầu phải giải quyết vẫn đề chống lam phát và
ổn định tiền tệ.
1.3.2. Tạo môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
Môi trường pháp lý đối với hoạt động ĐTNN bao gồm toàn bộ các văn bản pháp
qui có liên quan đến hoạt động đầu tư này, từ hiến pháp cơ bản đến các đạo luật cụ
thể. Điều mà các nhà đầu tư quan tâm trong nội dung của các đạo luật là: Thứ nhất,
có sự đảm bảo pháp lý đối với quyền sở hữu tài sản tư nhân và môi trường cạnh
tranh lành mạnh. Hai là, qui chế pháp lý của việc phân chia lợi nhuận, quyền hồi
hương lợi nhuận đối với các hình thức vận động cụ thể của vốn nước ngoài tại nước
sở tại. Ba là, các qui định về thu thuế, mức thuế các loại, giá và thời hạn thuê đất.
Nếu như các qui định về mặt pháp lý đảm bảo an toàn về vốn của nhà đầu tư không
bị quốc hữu hóa khi hoạt động đầu tư đó không phương hại đến an ninh quốc gia,
đảm bảo mức lợi nhuận cao và việc di chuyển lợi nhuận về nước dễ dàng thì khả
năng hấp dẫn và thu hút vốn ĐTNN càng cao.
1.3.3. Hệ thống kết cấu xây dựng cơ sở hạ tầng
Một trong những trở ngại lớn đối với quá trình đầu tư kinh doanh ở Việt Nam trong
những năm qua là sự nghèo nàn lạc hậu của hệ thống kết cấu cơ sở hạ tầng. Hiện
tượng này đã tồn tại từ rất lâu, do hậu quả của một nền kinh tế kém phát triển trong

yếu tố đầu tiên tác động đến thu hút ĐTNN. Các nhà đầu tư tin rằng sự ổn định về
chính trị đồng thời sẽ tạo ra sự ổn định về kinh tế xã hội và giảm bớt sự rủi ro cho
họ. Theo báo cáo phát triển thế giới 2005 của ngân hàng thế giới, khảo sát hơn
30000 doanh nghiệp tại 53 nước đang phát triển, ông Martin Rama – chuyên gia
kinh tế trưởng của WB đánh giá môi trường Việt Nam đang rất tốt trong đó có sự
tác động dáng kể của hệ thống luật pháp. Cùng với các nước châu Phi, Việt Nam
được coi là điển hình về cải cách thủ tục pháp lý - một trong những vấn đề cơ bản
để cải thiện môi trường đầu tư trong những năm qua. Môi trường luật pháp này bao
gồm các chính sách, quy định cần thiết đảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn,
chồng chéo nhau và có tính hiệu lực cao.
- Chính sách sở hữu: với mục đính chính là kiểm soát các hoạt động của các nhà
đầu tư, Việt Nam có quy định các nhà đầu tư nước ngoài phải góp vốn không ít hơn
30%. Hai đạo luật cơ bản trong hoạy động đầu tư là luật Doanh nghiệp và luật Đầu
tư nước ngoài dược Quốc hội thông qua cuối 2005 đã thiết lập mặt bằng chung cho
nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trước đây, nhà đầu tư nước ngoài chỉ được thành
lập cty TNHH, theo luật mới, họ có thể được mở rộng hình thức đầu tư. Chính phủ
Việt Nam cũng cam kết không tịch thu quốc hữu hoá đối với tài sản của các nhà đầu
tư. Trong trường hợp bắt buộc, đảm bảo an ninh quốc phòng, họ sẽ đươc bồi thường
theo quy định. Thêm vào đó, Việt Nam có những bước tiến lớn về bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ sau khi gia nhập công ước Burn.
- Chính sách thuế: chính phủ có quy định rõ ràng về từng loại thuế (thuế đất đai,
thuế thu nhập doang nghiệp, thuế thu nhập cá nhân,..), xây dựng danh mục đầu tư,
ưu đãi đầu tư, miễn giảm thuế trong một số lĩnh vực, có chính sách chuyển lỗ vào
năm sau, hoàn thuế do tái đầu tư cho doanh nghiệp.
- Chính sách lệ phí:quy định về các khoản tiền phải nộp như phí dịch vụ cấp giấy
phép, dịch vụ cơ sở hạ tầng (điện nước,giao thông,thông tin liên lạc, thuê đất...)
Chính sách 2 giá từng làm nhà đầu tư nước ngoài bất bình cũng đã được bãi bỏ, đối
xử bình đẳng đối với mọi nhà đầu tư.
2.1.1.2. Vị trí địa lý và cơ sở hạ tầng.
Đây là những yếu tố tự nhiên như khí hậu, tài nguyên, dân số, khoảng cách.. liên


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status