Đánh giá ảnh hưởng của các công thức thí nghiệm đến sinh trưởng của cây đảng sâm(codonopsis javanica (blume) hook f ) tại xã hồng kim, huyện a lưới, tỉnh t t huế - Pdf 38

PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiên nhiên đã ưu đãi cho chúng ta một tài nguyên thực vật làm thuốc đa
dạng và nhiều giá trị sử dụng. Vì vậy từ xa xưa con người đã biết sử dụng để
làm thuốc chữa bệnh. Với khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm nên Việt Nam có
hệ thực vật phong phú, đa dạng. Rừng Việt Nam với hơn 7.000 loài được mô tả
thì có tới 3.830 loài có dược tính được sử dụng làm thuốc (theo Thống kê của
Viện Dược liệu – Cây thuốc Việt Nam. Theo Võ Văn Chi, năm 2012 đã thống
kê được 4.700 loài cây thuốc, con số đó chắc hẳn là chưa đầy đủ bởi do kho tàng
và kinh nghiệm sử dụng thuốc của đồng bào các dân tộc vô cùng lớn mà ta chưa
thể tìm hiểu hết. Trong đó có một số cây thuốc và động vật quý hiếm có thể
chữa được những bệnh nan y và cũng là nguồn nguyện liệu phong phú để phát
triển công nghiệp dược phẩm. Trong gần 1.000 loài được khai thác thì có tới 500
– 700 loài là sản phẩm từ rừng thuộc các tỉnh miền núi. Trong y học cổ truyền
đã sử dụng 146 vị thuốc thì đã có 52 vị thuốc sử dụng từ nguồn dược liệu trong
nước và lấy từ rừng tự nhiên.
Đảng sâm hay là loài dây leo thân thảo, sống nhiều năm, theo Sách đỏ
Việt Nam thì Đảng sâm là một nguồn gen quý và là cây thuốc quý, được sử
dụng phổ biến trong y học. Đảng sâm có tác dụng bổ ngũ tạng, nâng cao thể lực,
tăng sức dẻo dai, tăng cường khả năng miễn dịch cho cơ thể; có tác dụng ích
huyết, sinh tân dịch, chống mệt mỏi, giảm stress. Bộ phận làm thuốc duy nhất
của Đảng sâm là rễ.Rễ cây Đảng sâm chứa saponins, triterpenes và steroid.Các
hoạt chất có trong rễ Đảng sâm giúp cho các hoạt động trao đổi chất của cơ thể
tốt hơn. Về công dụng Đảng sâm được dùng thay thế cho nhân sâm trong các
bệnh thiếu máu, da vàng, bệnh bạch huyết, viêm thượng thận, nước tiểu có
abumin, hợp chân phù đau; dùng làm thuốc bổ dạ dày, chữa ho, tiêu đờm, lợi
tiệu. Do có tác dụng dược lý và có giá trị kinh tế nên người dân tập trung khai
thác rễ cây Đảng sâm trong rừng một cách triệt để; làm cạn kiệt và giảm khả
năng tái sinh của loài trong tự nhiên. Vì vậy để bảo vệ nguồn cây dược liệu
mang tính đặc hữu của các vùng cần có các hướng nghiên cứu, bảo tồn, nhân
giống, phát triển nguồn cây dược liệu này.

và một số chất chuyển hóa trung gian khác, trong đó rất giàu hoạt tính sinh học
có giá trị, ví dụ như chất chống oxy hóa, chống viêm, kháng u, chống ung thư,
kháng khuẩn, kháng virus và các hoạt tính khác, v.v…[28].
Ở nhiều nước phương Đông (Trung Quốc, Nhật Bản, v.v…), các loại thuốc
thảo dược truyền thống đã được sử dụng rộng rãi trong hàng ngàn năm. Cây
thảo dược đã trở thành đối tượng chính của các nhà hóa học, hóa sinh học, và
dược phẩm.Nghiên cứu của họ đóng một vai trò quan trọng cho việc phát hiện
và phát triển các loại thuốc mới, có hiệu quả hơn và hy vọng không có những tác
dụng phụ giống như hầu hết các loại thuốc hiện đại.Bên cạnh đó, việc tập trung
vào chất hóa học của các hợp chất từ bất kỳ các loài cây thuốc, các nghiên cứu
cây thảo dược được dựa trên kinh nghiệm dân gian và sử dụng truyền thống. Có
một số lượng lớn và dồi dào cho việc phát triển dược phẩm thảo dược làm thuốc,
chỉ có khoảng 35.000 trên hơn 250.000 loài thực vật xác định. Đặc biệt, các khu
rừng nhiệt đới là một nguồn cung cấp quan trọng về cây dược liệu.Chỉ có
khoảng 1% cây từ rừng nhiệt đới ở thế giới đã được nghiên cứu trong lĩnh vực y
học. Điều này cho thấy rõ ràng rằng các nghiên cứu về cây dược thảo dược xuất
phát từ yêu cầu và nhu cầu của các nhà khoa học về sản phẩm tự nhiên...[28].
Tài liệu cổ về cây thuốc hiện nay còn không nhiều, tuy nhiên có thể coi
năm 2838 trước Công nguyên (TCN) là năm hình thành bộ môn nghiên cứu cây
thuốc và dược liệu. Cuốn “Kinh Thần Nông” vào thể kỷ I sau Công nguyên
(SCN) đã ghi chép 364 vị thuốc.Đây là cuốn sách tạo nền tảng cơ bản cho sự
phát triển liên tục của nền y học dược thảo Trung Quốc cho đến ngày nay [1].
Năm 1595, Lý Thời Trân (Trung Quốc) đã tổng kết tất cả kinh nghiệm về
cây thuốc và dược liệu để soạn thành cuốn: “Bản thảo cương mục”, đây là cuốn
sách vĩ đại nhất Trung Quốc về lĩnh vực này. Tác giả đã mô tả và giới thiệu
1.094 cây thuốc và vị thuốc từ cây cỏ [14].
Năm 384 – 322 (TCN), Aristote người Hy Lạp đã ghi chép và lưu giữ sớm
nhất về kiến thức cây cỏ ở nước này. Sau đó, năm 340 (TCN), Theophrase với
3


tấn dược liệu, sản phẩm y học dân tộc đạt giá trị 1,7 tỷ USD vào năm 1986, chiếm
33,1% thị trường thuốc năm 1995. Tại Nhật Bản, năm 1979 nhập 21.000 tấn, năm
1980 tăng lên 22.640 tấn dược liệu, tương đương 50 triệu USD, chiếm 12% giá trị
tổng sản lượng thuốc. Ở Cameroon, vỏ một loại cây thuốc là Prunus (họ
Rosaceae) được khai thác để xuất khẩu trong những năm 1990, có đến 3.000 tấn
loại này được xuất khẩu hàng năm cho giá trị cỡ 220 triệu USD.
Các nước trên thế giới đang hướng đến chương trình quốc gia kết hợp sử
dụng, bảo tồn và phát triển cây thuốc. Trong tương lai, để phục vụ cho mục đích
sức khoẻ con người, cho sự phát triển không ngừng của xã hội, để chống lại các
4


bệnh nan y, thì cần thiết phải có sự kết hợp giữa Đông – Tây y, giữa y học hiện
đại với kinh nghiệm cổ truyền dân tộc. Chính những kinh nghiệm truyền thống
đó là điểm mấu chốt để nhân loại khám phá ra những loại thuốc chống lại các
căn bệnh hiểm nghèo. Vì vậy, việc khai thác kết hợp bảo tồn các loài cây thuốc
là điều hết sức quan trọng.
2.1.2. Những nghiên cứu về cây thuốc ở Việt Nam
Ở Việt Nam, tập quán sử dụng cây thuốc đã có từ lâu. Có thể nói, nó xuất
hiện từ buổi đầu sơ khai, khi con người còn sống theo lối nguyên thuỷ. Trong
quá trình tìm kiếm thức ăn, tổ tiên chúng ta đã ngẫu nhiên phát hiện ra công
dụng và tác hại của nhiều loại cây. Suốt một thời gian dài như vậy, tổ tiên chúng
ta đã dần tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, biết lợi dụng tính chất cây rừng để
làm thức ăn và làm thuốc chữa bệnh.
Từ những buổi đầu dựng nước, dưới thời các vua Hùng, ông cha ta đã biết
sử dụng hành, tỏi, gừng, riềng… để làm gia vị trong những bữa ăn hằng ngày.
Thế kỷ XI (TCN), nhân dân ta có tục ăn trầu cho ấm người, thơm miệng,
uống nước chè xanh cho mát, v.v. Điều đó nói lên những hiểu biết về dinh
dưỡng và sử dụng thuốc của dân tộc [7].
Thế kỷ II (TCN), hàng trăm loại thuốc đã được phát hiện như: sắn dây,

các loài thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam, có 76 loài cho nhựa thơm,
160 loài có tinh dầu, 260 loài cho dầu béo, 600 loài chứa tanin, 50 loài cây gỗ có
giá trị, 40 loài tre nứa, 40 loài song mây [23].
Lương y lão thành, thầy thuốc ưu tú Lê Trần Đức với tác phẩm “Cây thuốc
Việt Nam” (1995) đã mô tả hơn 830 loài cây thuốc và giới thiệu cách trồng, hái,
chế biến, trị bệnh ban đầu [13].
Đỗ Tất Lợi (1970 – 2005) khi nghiên cứu các loài cây thuốc và vị thuốc
Việt Nam đã công bố 793 loài thuốc 146 họ ở hầu hết các tỉnh của nước ta.
Trong tài liệu này, tác giả cũng đã tiến hành mô tả từng cây, cách thu hái và chế
biến, thành phần hoá học, công dụng và liều dùng. Tuy nhiên, nơi phân bố của
từng loài tác giả giới thiệu rất khái quát [6].
Võ Văn Chi (1996) với bộ sách “Từ điển cây thuốc Việt Nam” đã giới
thiệu 3.200 loài cây mọc hoang và trồng ở Việt Nam. Tác giả đã mô tả khá chi
tiết từng loài, bộ phận dùng, nơi sống và thu hái, tính vị, công dụng của chúng.
Ngoài ra, sách còn có hình vẽ và ảnh chụp một số loài cây nên thuận lợi cho việc
tra cứu [24].
Cùng với sự ra đời các công trình nghiên cứu, nhiều tổ chức về y học dân
tộc được thành lập: Hội Đông y Việt Nam, Viện nghiên cứu Đông y,… đã thành
công trong việc điều tra, sưu tầm dược liệu, sưu tầm được 1.863 loài cây thuốc
thuộc 238 họ thực vật, thu thập 8.000 tiêu bản của 1.296 loài [4].
Đồng thời, nhằm đào tạo và nâng cao kiến thức cho nghiên cứu sinh và
thực tập sinh về điều tra, bảo tồn và tạo nguồn nguyên liệu chất lượng cao làm
thuốc phòng và chữa bệnh, Viện dược liệu, năm 2006 đã cho ra đời cuốn
“Nghiên cứu thuốc từ thảo dược” [2]. Cùng năm, cuốn “Cây có vị thuốc ở Việt
Nam” của Phạm Hoàng Hộ đã góp phần quan trọng trong việc điều tra về y
dược thiên nhiên và y dược dân tộc của nước ta [21].
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều đánh giá cao sự phong phú, ý nghĩa
thực tiễn, giá trị khoa học cũng như giá trị kinh tế của nguồn tài nguyên cây
thuốc.Cây thuốc dân tộc và đặc biệt tri thức y học dân tộc cổ truyền Việt Nam
đã góp phần không nhỏ trong việc duy trì, tồn tại và phát triển của dân tộc ta từ

Phòng Đảng sâm, Đảng sâm bắc) còn gọi là Rầy cấy, Mần cấy. Codonopsis
pilosula mọc tự nhiên ở những vùng rừng ẩm thấp miền núi Đông Bắc và Tây Bắc
Việt Nam, ở Lạng Sơn, Cao Bằng và khu Tây Bắc. Thứ hai là loài Codonopsis
javanica Blume (Đảng Sâm, Kim tiền báo, Thổ Đảng sâm, Đảng Sâm nam) còn có
tên là cây Đùi gà, Mằn rày cáy (Tày), Cang hô (Mèo), có nhiều ở Cao Bằng, Lạng
Sơn, Sơn La, Lai Châu, Yên Bái. Ở miền núi người dân tộc đã trồng xen Đảng sâm
với ngô mang lại hiệu quả cao.
Đảng sâm được xếp vào mức độ sắp nguy cấp (VU) trong Sách Đỏ Việt Nam
2007 và nằm trong nhóm IIa của Nghị Định 32-CP. Loài có giá trị là cây thuốc quý,
bị khai thác mạnh.Trước kia đẳng sâm bị khai thác nhiều, kích thước quần thể giảm.
7


Từ lâu đời, người dân đã biết khai thác và sử dụng cây Đảng sâm phục vụ cho
nhu cầu sống và buôn bán trên thị trường để kiếm thêm thu nhập. Rễ Đảng sâm tạo
thu nhập khá ổn định cho cuộc sống người dân. Tuy nhiên, số lượng quần thể và sản
lượng ngày càng bị giảm do nhiều nguyên nhân. Trong đó, các nguyên nhân chủ yếu
là người dân thường xuyên thu hái tận thu ngoài tự nhiên, thiếu kết hợp với tái sinh
và bảo tồn. Bên cạnh đó, việc phát triển diện tích rừng trồng cũng dẫn đến mất các
sinh cảnh tự nhiên cho sự phát triển của loài.
Chính vì vậy, nghiên cứu để tìm ra những giải pháp kỹ thuật toàn diện cho việc
phát triển các mô hình phục hồi và gây trồng loài Đảng sâm tại khu vực phân bố tự
nhiên của loài là một việc làm hết sức cấp thiết.
2.3. Sơ lược về phương pháp nhân giống bằng hom
2.3.1. Khái niệm nhân giống sinh dưỡng
Nhân giống sinh dưỡng (vegatative propagation) là sự nhân giống từ một bộ
phận sinh dưỡng của cây (củ, thân, lá, cành, mô phân sinh) hoặc sự tiếp hợp các bộ
phận sinh dưỡng (ghép) để tạo thành một cây mới.
Nhân giống sinh dưỡng là một bộ phận của nhân giống vô tính (asexual
propagation).Vì nhân giống vô tính bao gồm cả nhân giống bằng bảo tử

Nhân giống bằng hom truyền đạt các biến dị di truyền của cây mẹ (lấy vật liệu
giâm hom) cho cây hom. Cây hom không những giữ được các đặc trưng hình thái
giải phẫu của cây mẹ, giữ được các biến dị di truyền mong muốn được thể hiện
trong các kiểu hình của cây mẹ lấy cành, mà cây con giữ được các biến dị di truyền
về sinh trưởng nhanh và cho năng suất cao của chúng.
Nhân giống hom có thể giữ được ưu thế lai của đời F 1 và khắc phục được hiện
tượng phân li đời F2.
Nhân giống hom làm rút ngắn chu kì sinh sản, chu kì kinh doanh, đồng thời rút
ngắn thời gian thực hiện chương trình cải thiện giống cây rừng.
Nhân giống bằng hom góp phần quan trọng trong việc bảo tồn nòi giống cho
các loài cây khó thu hái và bảo quản hạt.
2.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến ra sự rễ của giâm hom
Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng ra rễ của hom giâm thành hai
nhóm là nhóm các nhân tố nội sinh và nhóm các nhân tố ngoại sinh.
Thuộc nhóm nhân tố nội sinh bao gồm: đặc điểm di truyền của loài, của xuất
xứ và của cá thể, vai trò của tuổi cây, tuổi cành, vị trí cành, pha phát triển của cành
và các chất điều tiết sinh trưởng. Thuộc nhóm nhân tố ngoại sinh là các loại hóa chất
kích thích ra rễ và các nhân tố hoàn cảnh như độ ẩm, ánh sáng, nhiệt độ v.v.
Đặc điểm di truyền: Nhiều nghiên cứu cho thấy không phải tất cả các loài đều
có khả năng ra rễ như nhau. Theo khả năng giâm hom có thể chia thực vật thành 2
nhóm chính:
Nhóm sinh sản chủ yếu bằng hom cành, là nhiều loài cây thuộc họ Dâu tằm
(Moraceae) như Dâu tằm, Đa, Sung, Dương v.v.
9


Nhóm sinh sản chủ yếu bằng hạt, khả năng ra rễ của hom giâm bị hạn chế ở
các mức độ khác nhau. Những loài dễ ra rễ như Sở đến 35 tuổi vẫn có khả năng
ra rễ 70-90% [18], Liễu sam (Cryptomeria japonia) 40-50 tuổi vẫn có khả năng
ra rễ 90%, Thông đỏ Pà Cò (Taxus chinensis) 40-50 tuổi vẫn ra rễ 80-90% [9].

ánh sáng cao hơn cây chịu bóng. Trong bóng tối hom các loài cây ưa sáng hoàn toàn
không ra rễ. Trong quá trình giâm hom cần sử dụng nhà kính hay màng PE trắng để
10


duy trì ánh sáng. Yêu cầu ánh sáng còn phụ thuộc vào mức độ hóa gỗ của hom. Hom
hóa gỗ yếu yêu cầu ánh sáng cao hơn hom hóa gỗ hoàn toàn [15].
Nhiệt độ: Cùng với ánh sáng, nhiệt độ là một trong những nhân tố quyết định
tốc độ ra rễ của hom giâm. Ở nhiệt độ quá thấp hom nằm ở trạng thái tiềm ẩn và
không ra rễ, còn ở nhiệt độ quá cao lại tăng cường hô hấp và bị hỏng, từ đó làm
giảm tỉ lệ hom ra rễ. Hom Ca cao (Theobroma cacao) ra rễ tốt nhất ở nhiệt độ trung
bình 25ºC (thay đổi 20ºC - 32ºC) khi nhiệt độ xuống 8 - 20ºC thì bị chết [5].
Độ ẩm: Độ ẩm không khí và độ ẩm giá thể là nhân tố hết sức quan trọng trong
quá trình giâm hom. Các hoạt động quang hợp, hô hấp, phân chia tế bào và chuyển
hóa vật chất trong cây đều cần nước.Thiếu nước thì hom bị héo, nhiều nước quá thì
hoạt động của men thủy giải tăng lên, quá trình quang hợp bị ngưng trệ.Khi giâm
hom mỗi loài cây đều cần một độ ẩm thích hợp, làm mất độ ẩm của hom 15 – 20%
thì hom hoàn toàn mất khả năng ra rễ [15].
Giá thể giâm hom: Giá thể cũng góp phần vào thành công của giâm hom. Các
loại giá thể được dùng hiện nay chủ yếu là cát tinh, mùn cưa hoặc xơ dừa băm nhỏ
hoặc đất vườn ươm. Một giá thể giâm hom tốt là có độ thoáng khí tốt và duy trì
được độ ẩm trong thời gian dài mà không ứ nước, tạo điều kiện cho rễ phát triển tốt
đồng thời phải sạch, không bị nhiễm nấm và không có nguồn sâu bệnh, độ pH
khoảng 6,0 - 7,0 [15].
2.4. Các nghiên cứu về nhân giống bằng hom
2.4.1. Các nghiên cứu trên thế giới
Trải qua nhiều thế kỷ, những thành tựu về nhân giống vô tính nói chung và
nhân giống bằng hom nói riêng đã được khẳng định. Đặc biệt, từ năm 1900 đến
nay, con người đã thành công trong công tác nghiên cứu nhân giống một số loài
cây thông qua con đường sinh sản vô tính. Nhân giống bằng hom được ứng dụng

gần 4 triệu cây hom mỗi năm. Năm 1989, ở Nhật Bản sản xuất 31,4 triệu cây hom
Liễu Sam (Cryptomeris japonica). Vân sam Na Uy (Picea abies) là loài cây lá kim
cũng thu được thành công trong việc nhân giống bằng hom với số lượng lớn phục
vụ công tác trồng rừng bằng dòng vô tính, nhất là ở Châu Âu. Chỉ tính riêng một số
cơ sở giâm hom chính của 11 nước mà hàng năm sản xuất gần 11 triệu cây hom.
Qua hơn 10 năm khảo nghiệm ở Mỹ, mới đưa vào sản xuất đại trà cây Thông Noel
(Pinus attenuata x P. radiata) với các đặc tính tốt của cây trang trí, sinh trưởng
nhanh, chịu lạnh, chịu hạn [19].
Các loài cây họ Dầu (Dipterocarpaceae), là họ đặc hữu phân bố chủ yếu ở
vùng nhiệt đới Đông Nam Á, được xem là khó ra rễ hoặc tỉ lệ ra rễ thấp khi nhân
giống bằng hom. Ngày nay, việc nghiên cứu nhân giống bằng hom cho một số
loài cây họ Dầu đã được tiến hành tương đối thành công ở một số nước nhiệt đới
như Indonesia, Philippinnes, Brunei-Darussalam,… Ở Indonesia, nhờ áp dụng
phương pháp mới trong việc nhân giống bằng hom cây họ Dầu mà tỉ lệ ra rễ đã
đạt từ 90% đến 100% với các loài Anisopterra marcinata, Shorea smihiana, S.
laevis, S. leprosula, S. oralis, S. blanco và S. paucifolia.23 loài trong số 60 loài
thuộc chi Dipterocarpus đã thành công nhờ sử dụng kỹ thuật nhân giống mới
này (Smith, 1990) [19]. Kết quả cũng rất khả quan ở Malaysia, tỉ lệ ra rễ cho các
loài thuộc chi Dipterocarpus như D. chartacen là 60% đến 68%, D. baudi là
12


70% đến 74%, D. kunstleri là 28%, trong khi đó một số loài thuộc chi Shorea có
thể cho tỉ lệ ra rễ 80% đến 90% (Aminah, 1996) [7]. Một số loài cho tỉ lệ ra rễ
khá cao Shorea bracteolate (85%), Shorea assamica (82%), Shorea ovalic
(79%), hay loài Sao đen (Hopea odorata) (86%) [19].
Những thành tựu đạt được trong nhân giống bằng hom và trồng rừng vô tính
cây hom là kết quả nghiên cứu hàng chục năm qua nhiều thế hệ của các nhà khoa
học lâm nghiệp trên thế giới. Các kết quả trên là điều khích lệ cho các nước khác đổi
mới trong công tác nghiên cứu nhằm cải thiện giống cây rừng, tạo tiền đề cho việc



PHẦN 3
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1.

Mục tiêu

3.1.1. Mục tiêu chung
-

Hướng đến mục tiêu phát triển gây trồng cây Đảng sâm để cung cấp nguồn
nguyên liệu sử dụng và tiêu thụ của người dân.
Góp phần bảo tồn loài cây Đảng sâm trước tình trạng khai thác không hợp lí
hiện nay.
3.1.2. Mục tiêu cụ thể

-

Tìm hiểu một số đặc tính sinh vật học, sinh thái học và công dụng làm thuốc của
cây Đảng sâm.
Đánh giá được ảnh hưởng của các loại hỗn hợp giá thể và chế độ che bóng đến
kết quả nhân giống của loài cây này.
Bước đầu đề xuất một số chỉ tiêu kỹ thuật trong nhân giống sinh cây Đảng sâm
ở huyện A Lưới.
3.2.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu




3.3.

Nội dung thực hiện

3.3.1. Điều kiện tự nhiên,kinh tế, xã hội của xã Hồng Kim, huyện A Lưới,
tỉnh Thừa Thiên Huế
-

Vị trí địa lý.
Điều kiện tự nhiên.
Điều kiện kinh tế xã hội.
3.3.2. Tìm hiểu đặc tính sinh vật học, sinh thái học và công dụng làm thuốc
của cây Đảng sâm Codonopsis javanica (Blume) Hook. F.
- Tên gọi và phân loại
- Đặc điểm về hình thái
- Đặc điểm về sinh thái
- Công dụng làm thuốc của cây Đảng sâm
3.3.3. Đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố thí nghiệm đến sinh trưởng của
hom
- Ảnh hưởng của hỗn hợp giá thể đến sinh trưởng của hom Đảng sâm
- Ảnh hưởng của chế độ che bóng đến sinh trưởng của hom Đảng sâm
3.3.4. Đánh giá ảnh hưởng của nhân tố thí nghiệm đến sinh trưởng của cây
con
- Ảnh hưởng của hỗn hợp giá thể đến sinh trưởng của cây con Đảng sâm
- Ảnh hưởng của chế độ che bóng đến sinh trưởng của cây con Đảng sâm
3.4.

Phương pháp nghiên cứu

giống Đảng sâm
 Thí nghiệm 1: Thí nghiệm ảnh hưởng hỗn hợp giá thể ruột bầu đến quá

trình ra rễ và sinh trưởng
Bố trí thí nghiệm theo khối ngẩu nhiên đầy đủ 3 lần lặp 5 công thức giá thể
khác nhau. Công thức bố trí thí nghiệm lần lượt:
Công thức 1: 100% đất
Công thức 2: Hỗn hợp 50% đất, 50% cát
Công thức 3: Hỗn hợp 50 % đất, 30% cát, 20% xơ dừa
Công thức 4: Hỗn hợp 50% đất, 30% cát, 20% phân chuồng hoai
Công thức 5: Hỗn hợp 50% đất, 30% xơ dừa, 20% phân chuồng hoai.
Sơ đồ bố trí thí nghiệm:
Lặp 1
CT1
CT2
CT3
CT4
CT5
Lặp 2
CT3
CT4
CT5
CT1
CT2
Lặp 3
CT5
CT1
CT2
CT3
CT4

CT4
CT2
CT1

b. Phương pháp lấy hom, xử lí và cấy hom.
- Dụng cụ: Kéo bấm cành, kéo cắt hom, xô, chậu.
- Kĩ thuật chọn hom: Công tác chọn hom là rất quan trọng quyết định đến thành

-

-

-

-

-

-

công hay thất bại của việc giâm hom. Hom được lấy trên cây ưu tú đã chọn.
Chọn những dây già, mọc trực tiếp từ thân mẹ ra, cành có nhiều mắt. Hom càng
mập chất dinh dưỡng dự trữ càng nhiều, sẽ là nguồn cung cấp năng lượng cho
hom ra rễ, ra lá và giúp cho hom sinh trưởng ở giai đoạn đầu được tốt, tỷ lệ sống
cao.
Thời điểm, cách thu hái hom và xử lý hom: Cắt dây lấy hom được tiến hành vào
buổi sáng sớm, lúc trời còn dịu mát. Trên đường vận chuyển hom được bọc bao
tải ướt tưới thêm nước thường xuyên.
Cắt và xử lý hom:
+ Dùng kéo sắc để cắt hom, chiều dài hom tùy theo loại hom. Mỗi hom có

+ Chiều cao vút ngọn.
3.4.2. Phương pháp xử lí số liệu.
-

19

Sử dụng phần mềm Excel xử lý thống kê trong Lâm nghiệp để phân tích
và xử lý số liệu:
+

Các số liệu sau khi đo đếm được nhập vào Excel và tính theo giá trị
trung bình cộng;

+

Dùng tiêu chuẩn khi bình phương để đánh giá tỷ lệ sống giữa các
công thức và tìm ra công thức nghiệm tốt nhất;

+

Sử dụng phương pháp phân tích phương sai 1 nhân tố để xác định
sự sai khác về các chỉ tiêu sinh trưởng của cây Đảng sâm ở các điều
kiện khác nhau. Dùng tiêu chuẩn t (Student) để tìm công thức thí
nghiệm tốt nhất/ kỹ thuật trồng tốt nhất.


PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU – THẢO LUẬN
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của khu vực nghiên cứu
4.1.1. Điều kiện tự nhiên

+ Vùng đất thấp chạy theo sông Tà rinh.
+ Vùng núi thấp và trung bình chiếm diện tích lớn, được phân bố đều từ Bắc
đến Nam.
Ngoài ra, độ dốc cũng được đánh giá là một yếu tố quan trọng trong tiềm
năng tự nhiên lãnh thổ, nó ảnh hưởng đến quá trình xói mòn và kỹ thuật canh tác.
-

Đất đai:

Diện tích đất đai các loại (có biểu chi tiết kèm theo trong phần phụ lục).
Hồng Kim có diện tích đất tự nhiên 4.066,1 ha, trong đó đất nông nghiệp
3895,59ha, chiếm 95,33 %; đất phi nông nghiệp 76,59ha, chiếm 1,88 %; đất chưa sử
dụng 108,61ha, chiếm 2,7 %. Đất đai chủ yếu là đất feralit vàng nâu phát triển trên
đất đá mẹ phiến sa thạch. Ngoài ra còn có các loại đất vàng nâu trên dốc tụ, phù sa
không bồi tụ, đất vàng nhạt phát triển trên đá cát và có chứa một ít đất xám bạc màu.
Bảng 4.1. Diện tích đất đai các loại tại xã Hồng Kim
Loại đất

Diện tích ( ha )

Cơ cấu ( % )

Diện tích đất tự nhiên

4.066,1

100

3895,59



4.

kéo dài từ tháng tư đến tháng chín, mùa đông chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc
lạnh kéo dài từ tháng mười đến tháng ba năm sau, xen giữa hai mùa có gió đông
nam ẩm và gió Tây Bắc khô rét.
Nhiệt độ trung bình trong năm là: 310C, nhiệt độ cao nhất là: 390C, nhiệt độ
thấp nhất là: 80C.
Lượng mưa bình quân là 3120mm, thấp nhất là 2520mm, cao nhất là
4570mm. Số ngày mưa trong năm là 210 ngày, thường tập trung vào tháng 10, 11,
12. Độ ẩm trung bình là 68%.
Hướng gió chính là Tây Nam thổi từ tháng 4 – tháng 9, hướng gió Đông Bắc
thổi từ tháng 10 – tháng 4 năm sau
Nhìn chung, khí hậu ở xã Hồng Kim có nền nhiệt độ tương đối cao và khá ổn
định, nhiệt độ trung bình 310C do đó rất phù hợp cho sản xuất nông - lâm nghiệp và
nuôi trồng thủy sản.
- Đặc điểm thủy văn
Do nhận được lượng mưa hằng năm lớn nên trên địa bàn xã Hồng Kim có
mạng lưới khe sông suối khá dày đặc như suối Ta Rinh, suối A Nor mặc dù
không rộng lắm nhưng cũng phục vị đắc lực cho việc tưới tiêu cũng như cung
cấp nước sinh hoạt cho người dân nơi đây. Ở đây lũ chỉ xảy ra trong 3 tháng
cuối mùa mưa (tháng 9, 10, 11), tức là lũ xảy ra chậm một tháng và kết thúc
trước một tháng so với mùa mưa. Điều này chứng tỏ ở đây có tầng đất dày và
thảm thực vật rừng che phủ tốt nên có tác dụng điều tiết dòng chảy ở khu vực,
chính vì vậy về mùa khô nhờ nguồn có nguồn nước ngầm cung cấp nên các con
sông suối ở đây ít khô cạn.
Tài nguyên thiên nhiên
-

Tài nguyên rừng

Bên cạnh đó kết hợp với kết hợp với những cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp như
suối nước nóng Tôm Trung, thác Pông Chất, hang động Kềnh Crâm ( xã A Roàng),
hồ mặt nước ngầm A Co ( xã Phú Vĩnh, Hồng Thượng), đèo Pe Ke (xã Hồng Vân,
Hồng Thủy)…
-

Tài nguyên nước

+ Nguồn nước mặt: chủ yếu là nhờ vào nguồn nước trời và nước của các con sông
suối cung cấp cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của người dân. Diện tích mặt nước
chuyên dùng là: 13,53ha trong đó diện tích nuôi trồng thủy sản 7,3ha. Nguồn mặt
nước của xã Hồng Kim chủ yếu từ sông các khe như Tà Rinh, A Nôr. Nhìn chung
nguồn tài nguyên nước mặt thuận lợi cho việc xây dựng các hồ đập tự chảy.
+ Nguồn nước ngầm: là nguồn tài nguyên quan trọng bổ sung cho nguồn nước mặt.
Hồng Kim là nơi có nguồn nước nhập phong phú, mạch nước ngầm trong khu vực
khá cao, thuận lợi cho việc đào giếng, cung cấp nguồn nước sạch cho hoạt của đồng
bào trong vùng.
-

Tài nghuyên khoáng sản

Theo tài liệu của Cục Địa chất và Khoáng sản, Bộ Tài nguyên và Môi trường thì
trên địa bàn xã chủ yếu là cát, sạn phục vụ cho sản xuất vật liệu xây dựng.
4.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội
4.1.2.1. Đặc điểm dân cư
Tổng số họ xã đang quản lý là: 479 hộ, với 1.869 nhân khẩu, trong đó: nam
917 người, nữ 947 người, nhân khẩu trên 14 tuổi trở lên là 1.372 người.
Cơ cấu lao động theo các ngành là: dịch vụ 7%, nông lâm nghiệp 97%. Lao
động ở đây có trình độ chuyên môn thấp, chủ yếu là dựa và kinh nghiệm nên năng
suất còn thấp.

nhiều người tham gia trồng rừng kinh tế. Hiện nay toàn xã 107ha.Những khó
khăn trong công tác trồng rừng là nhiều diện tích hiện nay không có đường để
khai thác nên làm sản phẩm rừng trồng bị mất giá.Công tác quản lý bảo vệ rừng;
phòng chống chữa cháy rừng được thực hiện tốt.
Thu nhập bình quân/đầu người năm 2010: 10,5 triệu đồng. Tỷ lệ hộ nghèo
năm 2010: 29,95%.
4.1.2.3. Các đặc trưng về văn hóa, xã hội và môi trường
- Về văn hóa – giáo dục:
+ Tỷ lệ thôn đạt chuẩn văn hóa có 2/6 thôn với 335 hộ đạt 73,64% hộ trên toàn
xã.
+ Phổ cập giáo dục THCS: Đạt

24


+ Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học trung học (phổ thông, bổ
túc, nghề ): 65%.
- Y tế:
+ Xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.
+ Tỷ lệ tham gia các hình thức bảo hiểm y tế 45 %.
- Môi trường:
+ Số công trình cấp nước sinh hoạt tập trung: 75 %.
+ Tỷ lệ hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh 95 %
+ Tỷ lệ hộ có đủ 3 công trình (nhà tắm, hố xí, bể nước ) đạt chuẩn 5,6 %.
+ Tỷ lệ hộ có cơ sở chăn nuôi hợp vệ sinh: (Có 01 hộ ở thôn A Tia 3).
+ Xử lý chất thải: Chưa có.
+ Tỷ lệ cơ sở sản xuất chưa đạt tiêu chuẩn môi trường: Không
+ Nghĩa trang: đã quy hoạch và có địa điểm nhưng chưa thiết kế, đóng cột mốc
cụ thể từng khu vực (Đã xác định 03 khu vực).
Tình hình chung về môi trường và quản lý môi trường trên địa bàn xã:


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status