BÀI GIẢNG KINH tế CHÍNH TRỊ CHUYÊN đề GIỚI THIỆU tác PHẨM bộ tư bản - Pdf 38

1
Chuyên đề 1
Tác phẩm: BỘ “TƯ BẢN”
* * *
1. Mô tả chuyên đề:
Đây là chuyên đề nghiên cứu những vấn đề lý luận trong Học thuyết
kinh tế của C.Mác. So với bậc học dưới, nội dung có sự phát triển hơn và bám
sát thực tiễn đổi mới hiện nay. Đây là một trong những chuyên đề trọng tâm
của môn học kinh tế chính trị.
2. Mục đích:
- Nhận thức bản chất của nền SX TBCN, vai trò và sứ mệnh lich sử của
giai cấp vô sản trong quá trình đấu tranh xoá bỏ chế độ cũ, xây dựng một xã
hội mới văn minh, hạnh phúc
- Tiếp tục khẳng định tính cách mạng, tính khoa học của lý luận giá trị
thặng dư trong học thuyết kinh tế Mác.
- Làm cơ sở xem xét các hiện tượng, quá trình kinh tế tư bản chủ nghĩa.
- Đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội xét lại, bảo
vệ học thuyết kinh tế Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung.
3. Yêu cầu:
Nghiên cứu vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào quá trình xây dựng nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
4. Kết cấu chuyên đề: Gồm 2 phần
I. Phần mở đầu
II. Nội dung chủ yếu của Bộ Tư bản
III. Ý nghĩa của tác phẩm
5. Tổ chức, phương pháp nghiên cứu bài giảng:
Giảng viên xây dựng chuyên đề theo hướng bài giảng điện tử hoặc bài
giảng truyền thống. Sử dụng phương pháp thuyết trình, nêu vấn đề, đối thoại
trong quá trình lên lớp để làm nổi bật nội dung của chuyên đề.




3
học thuyết kinh tế đã từng xuất hiện trước đó và thực tiễn kinh tế xã hội để
viết Bộ tư bản. Quá trình đó được chia thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn trước năm 1848: xây dựng cơ sở lý luận và phương pháp luận
nghiên cứu khoa học nói chung, kinh tế học chính trị nói riêng.
Giai đoạn từ 1848 đến trước 1867: xây dựng và hoàn thiện các quan
điểm lí luận, hệ thống các phạm trù, khái niệm.
Giai đoạn 1867 đến 1895: hoàn thiện học thuyết kinh tế Mác.
- Hoàn cảnh lịch sử khi C.Mác viết Bộ tư bản:
+ Tiền đề thực tiễn kinh tế xã hội
Đầu thế kỷ XIX cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành ở Anh, đang
diễn ra mạnh mẽ ở Pháp và các nước tư bản khác. Quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa đã cơ bản xác lập được địa vị thống trị của nó ở Tây Âu, Bắc Mĩ.
Quan hệ sản xuất tư bản ra đời và phát triển, một mặt nó tạo ra những
bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, mặt khác nó lại làm cho tính chất
bóc lột tư bản chủ nghĩa ngày càng tăng lên. Giai cấp vô sản - con đẻ của nền
đại công nghiệp, ngày càng lớn mạnh đã bước lên vũ đài chính trị và trở thành
một giai cấp cơ bản của xã hội tư sản. Để thực sự trở thành một giai cấp cách
mạng nhất, tiên tiến nhất và đại biểu cho xã hội tương lai, giai cấp vô sản cần
phải có một lí luận khoa học soi đường. Chủ nghĩa Mác nói chung, học thuyết
kinh tế Mác nói riêng ra đời sẽ đáp ứng yêu cầu thực tiễn cách mạng của giai
cấp vô sản.
+ Tiền đề lí luận
Chủ nghĩa Mác nói chung, học thuyết kinh tế Mác nói riêng được C.Mác
và Ph.Ănghen xây dựng trên những tiền đề lí luận hoàn toàn được xác định.
Đó là Triết học cổ điển Đức; Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh; Chủ nghĩa
xã hội không tưởng Pháp. Đặc biệt với việc sử dụng phép biện chứng cùng
quan điểm duy vật về lịch sử vào nghiên cứu kinh tế tư bản chủ nghĩa, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã tiến hành một cuộc cách mạng trong kinh tế chính trị và

đưa ra khái niệm tư bản là một quan hệ xã hội; cơ sở kinh tế cho sự thống trị


5
của tư bản và bóc lột lao động làm thuê là chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa.
Năm 1857 - 1858, C.Mác viết “Bản thảo kinh tế” gồm phần mở đầu;
chương Tiền tệ; chương Tư bản. Tuy không xuất bản thành sách nhưng đây
được xem là Bản thảo (có tài liệu gọi là di bản hay biến thể) đầu tiên của Bộ
tư bản sau này. Từ bản thảo1857 - 1858 (Bản thảo kinh tế), C.Mác xây dựng
kế hoạch viết 6 quyển sách( quyển 1: Về Tư bản; quyển 2: Về sở hữu ruộng
đất; quyển 3: Về lao động làm thuê; quyển 4: Về nhà nước; quyển 5: Ngoại
thương; quyển 6: Thị trường thế giới).
Năm 1859, dựa vào “Bản thảo kinh tế” và kế hoạch viết “6 quyển sách”,
C.Mác xuất bản “Góp phần phê phán kinh tế chính trị” gồm Lời nói đầu và 2
chương là Hàng hoá; Tiền tệ hay lưu thông giản đơn. Trong chương Hàng
hoá, lần đầu tiên tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá được đề
cập tới, đánh dấu sự hoàn bị lý luận giá trị - lao động. Dựa vào phát hiện này,
C.Mác đã trình bày một cách khoa học hệ thống các phạm trù kinh tế tư bản
chủ nghĩa (những phạm trù, khái niệm này sau đó được trình bày ở quyển 1
và quyển 2 của Bộ tư bản).
Năm 1861, C.Mác tiếp tục nghiên cứu kinh tế; đến tháng 7 năm1863,
C.Mác hoàn thành bản thảo “Phê phán kinh tế chính trị”. Có thể coi đây là
bản thảo lần hai của Bộ tư bản. Hầu hết các nội dung trong Phê phán kinh tế
chính trị sau này được C.Mác trình bày trong Bộ tư bản và trong lúc viết bản
thảo lần 2, C.Mác đã có ý định đặt tên cho công trình nghiên cứu kinh tế của
mình là Tư bản.
Năm 1864 - 1865, C.Mác hoàn thành bản thảo lần 3. So với bản thảo lần
2 (1861-1863) bản thảo lần 3 có sự thay đổi về kết cấu và dự kiến viết Bộ tư
bản thành 4 quyển (quyển 1: Quá trình sản xuất của tư bản; quyển 2: Quá

kết tinh đơn thuần, không phân biệt, của lao động của con người, tức là một
sự chi phí về sức lao động của con người, không kể đến hình thức của sự chi
phí đó. Tất cả những vật ấy bây giờ chỉ còn biểu hiện một điều là trong việc
sản xuất ra chúng, sức lao động của con người được chi phí vào đấy, lao động


7
của con người đã được tích lũy vào đấy. Là những tinh thể của cải thực thể xã
hội chung cho tất cả các vật ấy, cho nên các vật ấy đều là những giá trị những giá trị hàng hóa”(Sđd, tr.66).
4. Kết cấu lôgic lớn
Bộ tư bản gồm 4 quyển (tìm đọc trong C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập:
tập 23; tập 24; tập25 - phần 1, 2; tập 26 - phần 1, 2, 3) có kết cấu:
Quyển 1 - Quá trình sản xuất của tư bản: gồm 8 phần, 32 chương với 4
nội dung: lí luận giá trị; lí luận giá trị thặng dư; lí luận tiền công; lí luận tích
luỹ tư bản.
Quyển 2 - Quá trình lưu thông của tư bản: gồm 3 phần, 21 chương với 2
nội dung: lí luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản; lí luận tái sản xuất và lưu
thông tư bản xã hội.
Quyển 3 - Các hình thái và loại hình của toàn bộ quá trình nói chung:
gồm 7 phần, 52 chương với những nội dung: chi phí sản xuất TBCN và lợi
nhuận; lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất; tư bản kinh doanh hàng hoá và
lợi nhuận của thương nhân; tư bản cho vay và lợi tức; tư bản kinh doanh nông
nghiệp và địa tô TBCN…
Quyển 4 - Các học thuyết về giá trị thặng dư: gồm 3 phần: Phê phán chủ
nghĩa trọng nông và lí thuyết kinh tế của A.Smith; phê phán lí thuyết kinh tế
của D.Ricardo; phê phán KTCT cổ điển và quá trình tầm thường hoá KTCT.
II. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA BỘ TƯ BẢN
Bộ Tư bản của C.Mác là một công trình nghiên cứu khoa học kinh tế đồ
sộ với dung lượng rất lớn, được kết cấu một cách thực sự lôgíc với sự thống
nhất cao giữa tính khoa học và tính cách mạng. Đã có nhiều công trình nghiên

đã hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định. Tuy nhiên, lượng giá trị
không phải được đo bằng hao phí lao động cá biệt mà phải được đo bằng hao
phí lao động xã hội - hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong lý luận giá trị,
công lao lớn nhất của C.Mác là phát hiện tính chất hai mặt của lao động sản
xuất hàng hoá. Đây là chìa khóa để C.Mác luận giải toàn bộ quá trình tạo ra
giá trị thặng dư cho nhà tư bản.


9
Các nhà kinh tế trước C.Mác - nhất là các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ
điển Anh đã đề cập đến phạm trù giá trị, đã phân biệt được giá trị sử dụng và
giá trị... nhưng vì sao hàng hóa có hai thuộc tính thì họ lại không thể lý giải
được. Chỉ có C.Mác, trên cơ sở phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động
sản xuất hàng hóa, mới làm cho lý luận giá trị trở thành hoàn bị nhất. C.Mác
đã đứng trên quan điểm giá trị lao động để phê phán (có kế thừa) các nhà kinh
tế trước đó để xây dựng Học thuyết kinh tế của riêng mình - Học thuyết giá trị
thặng dư.
Trong Phần thứ nhất, quyển 1, C.Mác đã dành một chương (chương 3)
để phân tích tiền tệ.
Về phạm trù tiền tệ, C.Mác chứng minh rằng: Tiền tệ ra đời là xuất phát
từ nhu cầu phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Đó là quá trình lịch
sử lâu dài qua các hình thái giá trị trong lịch sử - từ hính thái đơn giản, đơn
nhất, hay ngẫu nhiên của giá trị đến hình thái đầy đủ hay mở rộng; đến hình
thái chung. Trong hình thái đơn giản, C.Mác đã phân tích hình thái tương đối
của giá trị và hình thái ngang giá. Trong hình thái đầy đủ hay mở rộng, C.Mác
đề cập đến hình thái tương đối mở rộng; hình thái ngang giá đặc thù. Trong
hình thái chung, C.Mác đã đề cập đến bước chuyển từ hình thái phổ biến sang
hình thài tiền và cho rằng: “Loại hàng hóa đặc biệt mà về mặt xã hội, hình
thái tự nhiên của nó dần dần gắn liền với hình thái vật ngang giá, thì nó trở
thành hàng hóa - tiền, hay làm chức năng tiền” (Sđd tr.111). Như vậy, tiền tệ

2. Học thuyết giá trị thặng dư
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư (học thuyết giá trị thặng dư theo
nghĩa hẹp): trình bày từ phần 2 đến phần 5, gồm 13 chương
Mở đầu phần lý luận giá trị thặng dư: Phần thứ hai, quyển 1: Sự chuyển
hóa của tiền thành tư bản. C.Mác nêu công thức chung của tư bản và chỉ ra
mâu thuẫn trong công thức chung đó; trình bày điều kiện của sản xuất tư bản
chủ nghĩa (sự chuyển hoá tiền thành tư bản, sức lao động trở thành hàng hoá);


11
từ mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản:T - H - T / , C.Mác phân tích
điều kiện sức lao động trở thành hàng hóa - người lao động được tự do về
thân thể, người lao động không có tư liệu sản xuất buộc phải bán sức lao
động cho người khác. Theo C.Mác, hàng hóa sức lao động có hai thuộc tính
là giá trị và giá trị sử dụng. Hàng hóa sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt,
là yếu tố duy nhất tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Luận giải quá trình
sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản, C.Mác đã chứng minh rằng, trong
quá trình sử dụng hàng hóa sức lao động(quá trình người công nhân làm việc
trong các xí nghiệp tư bản) giá trị hàng hóa sức lao động không mất đi mà nó
còn tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn, phần lớn hơn đó bị nhà tư bản chiếm
đoạt- giá trị thặng dư.
Phân tích vai trò của các bộ phận tư bản khác nhau trong quá trình tạo ra
giá trị thặng dư cho nhà tư bản, C.Mác đã phân chia tư bản thành tư bản bất
biến, tư bản khả biến. Tư bản bất biến là bộ phận tư bản dùng để mua các tư
liệu sản xuất (nhà xưởng, máy móc, nguyên, nhiên vật liệu...). Gọi là tư bản
bất biến vì giá trị của nó không thay đổi mà chỉ chuyển dần vào sản phẩm mới
thông qua lao động cụ thể của người công nhân. Tư bản khả biến là bộ phận
tư bản dùng để mua hàng hóa sức lao động. Sau mỗi quá trình sản xuất hàng
hóa cho nhà tư bản, bằng lao động trừu tượng người công nhân tạo ra một
lượng gía trị mới không những đủ bù đắp lại giá trị hàng hóa sức lao động ngang bằng tiền lương nhà tư bản trả cho công nhân, mà còn một phần dôi ra

phân chia giá trị gia tăng trong sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường...
3. Lí luận tiền công: Trình bày trong Phần 6, quyển 1, gồm 4 chương.
Khi nghiên cứu quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, C.Mác đã khẳng
định chính lao động của người công nhân làm thuê đã làm tăng giá trị cho tư
bản. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, sức lao động là hàng hóa. Cũng
như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có giá trị và giá trị sử
dụng. Lý luận tiền công trong Học thuyết kinh tế của C.Mác đã chỉ ra sự
chuyển hóa của giá trị sức lao động hay giá cả sức lao động, thành tiền công.
Nội dung lý luận tiền công trong học thuyết kinh tế Mác:


13
Sử dụng phương pháp phản chứng, C.Mác khẳng định tiền công dưới
chủ nghĩa tư bản là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động, là
giá cả hàng hoá sức lao động; dưới chủ nghĩa tư bản, tiền công nhà tư bản trả
cho công nhân dưới hai hình thức: tiền công tính theo thời gian và tiền công
tính theo sản phẩm. Trong lý luận tiền công, C.Mác còn đề cập và luận giải
tiền côngdanh nghĩa và tiền công thực tế. Trong điều kiện cạnh tranh tư bản
chủ nghĩa, tiền công thực tế của người công nhân có xu hướng giảm xuống.
Lí luận tiền công trong học thuyết kinh tế Mác chỉ rõ mối quan hệ giữa
tư bản với lao động làm thuê. Nó là phần giá trị mới do công nhân tạo ra mà
nhà tư bản lấy trả lại cho người công nhân. Nhìn bên ngoài nó dường như là
hợp lý, là công bằng, ứng tư bản kinh doanh thì có lợi nhuận, có lao động thì
có tiền công... đó là “người có công, kẻ có của”. Lí luận tiền công dưới chủ
nghĩa tư bản là sự bổ sung, hoàn thiện lí luận giá trị thặng dư trong học thuyết
kinh tế của C.Mác. Ngoài ý nghĩa chính trị xã hội, lí luận tiền công còn có ý
nghĩa về mặt kinh tế nếu gạt bỏ tính chất tư bản chủ nghĩa thì tiền công phản
ánh các mối quan hệ xã hội giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Tiền công phải dảm bảo tái sản xuất sức lao động; tiền công phải là động lực
để người lao động làm việc với năng suất chất lượng và hiệu quả cao nhất

lũy ban đầu hay tích lũy nguyên thủy để đẩy nhanh sự ra đời của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa. C.Mác cho rằng: trước chủ nghĩa tư bản đã có một
sự tích lũy “ban đầu”- một tích lũy không phải là kết quả của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà là điểm xuất phát của chúng(Sđd tr.995)
Lí luận tích luỹ tư bản có vị trí quan trọng trong Học thuyết kinh tế Mác.
Bởi vì, tích lũy để tái sản xuất mở rộng là quy luật tất yếu của mọi nền sản
xuất, nhưng trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, tích lũy tái sản xuất mở rộng
đồng nghĩa với việc mở rộng quy mô, trình độ bóc lột lao động làm thuê. Lí
luận tích lũy giúp người đọc nhận rõ hơn quy luật phát triển của quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy luật tích lũy
tư bản cũng bị chi phối bởi quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản- quy
luật giá trị thặng dư.


15
Dưới góc độ kinh tế, để thực hiện tích lũy tái sản xuất mở rộng, phải giải
quyết tốt mối quan hệ giữa tích lũy với tiêu dùng, vấn đề tích tụ và tập trung
vốn cho sản xuất kinh doanh, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao
năng suất lao động, vấn đề khâu hao tài sản cố định đề đổi mới công nghệ...
Đây là những vấn đề có tính quy luật chung cho các nền kinh tế thị trường.
Quyển II: Quá trình lưu thông của tư bản
(C.Mác và Ph.Ăng-ghen Toàn tập, tập 24, Nxb CTQG, H.1994):
Quyển 2 được kết cấu thành 3 phần với 21 chương. Trên cơ sở Bản thảo
của C.Mác, Ph.Ăngghen biên tập, có chỉnh sửa (sửa những gì mà - như
Ph.Ăngghen nói, nếu còn sống thì Mác cũng sẽ sửa trước khi xuất bản) và
được xuất bản 1885.
Sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất của tư bản, trong quyển C.Mác
trình bày kết quả nghiên cứu quá trình lưu thông của tư bản.
Khi nghiên cứu quá trình lưu thông của tư bản C.Mác đã luận giải và
phân biệt sự giônmgs, khác nhau giữa lưu thông hàng hóa giản đơn và lưu

SLĐ

Phân tích quá trình vận động của tư bản nói chung, C.Mác đã kết luận:
“Tư bản công nghiệp là phương thức tồn tại duy nhất của tư bản trong
đó chức năng của tư bản không phải chỉ là chiếm hữu giá trị thặng dư, tức là
chiếm hữu sản phẩm thặng dư, mà còn tạo ra giá trị thặng dư nữa. Vì thế, tư
bản công nghiệp quyết định tính chất tư bản chủ nghĩa của sản xuất; sự tồn
tại của tư bản công nghiệp bao hàm sự tồn tại của mâu thuẫn giai cấp giữa
nhà tư bản và công nhân làm thuê... Còn tư bản tiền tệ và tư bản hàng hóa
chừng nào xuất hiện cùng với chức năng của chúng bên cạnh tư bản công
nghiệp với tư cách là đại biểu cho những ngành kinh doanh đặc biệt, thì
chúng chỉ là những phương thức tồn tại của các hình thái chức năng khác
nhau mà tư bản công nghiệp lần lượt mang lấy rồi lại trút bỏ đi trong lĩnh
vực lưu thông”… (Sđd Toàn tập, tập 24, tr. 89-90)


17
Phần thứ hai: C.Mác phân tích sự vận động của tư bản cá biệt về mặt
định lượng: chu chuyển của tư bản, gồm 11 chương.
Trong phần này, C.Mác đã đưa ra khái niệm chu chuyển của tư bản là
quá trình tuần hoàn của tư bản lập đi lập lại và đổi mới không ngừng. So sánh
sự tuần hoàn của các tư bản khác nhau, C.Mác phân tích thời gian và tốc độ
chu chuyển của tư bản. Thời gian chu chuyển của tư bản là thời gian tư bản
được ứng ra dưới một hình thái nhất định đến khi thu về cũng dưới hình thái
đó có thêm giá trị thặng dư - đó là thời gian tư bản thực hiện một vòng tuần
hoàn. Thời gian chu chuyển của tư bản gồm thời gian sản xuất và thời gian
lưu thông. Những yếu tố ảnh hưởng tới thời gian chu chuyển của tư bản là
năng suất lao động, quy mô sản phẩm, sức mua của thị trường...
C.Mác đã đưa ra căn cứ để phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư
bản lưu động, đó là phương thức chuyển của tư bản. Tư bản cố định là bộ phận

lượng và tỉ suất giá trị thặng dư hàng năm cho nhà tư bản.
Lí luận tuần hoàn chu chuyển của tư bản trong học thuyết kinh tế của
C.Mác có ý nghĩa quan trọng cả về mặt chính trị xã hội và về mặt kinh tế kỹ
thuật. Về mặt chính trị xã hội, tăng tốc độ chu chuyển của tư bản làm tăng
hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng tỉ suất và khối lượng lợi nhuận. Điều đó
cũng có nghĩa là tăng tỉ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Về mặt kinh tế
tăng tốc độ chu chuyển (luân chuyển)vốn sẽ làm tăng hiệu quả sản xuất kinh
doanh của từng doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Phần thứ ba: nghiên cứu sự tái sản xuất và lưu thông của tổng tư bản xã
hội. Đối tượng của phần ba, quyển 2 là sự vận động của toàn bộ các tư bản cá
biệt có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau - tổng tư bản xã hội.
“Sự vận động của tư bản xã hội” gồm toàn bộ những sự vận động của
những phân số đã tách riêng ra của nó, tức là gồm toàn bộ những chu chuyển
của các tư bản cá biệt” (Sđd tập 24, tr. 515).
Phần ba, quyển II gồm 4 chương:
Sau khi phê phán quan niệm của Kênê cho rằng: “nông nghiệp là lĩnh
vực duy nhất đầu tư lao động của con người, lĩnh vực tạo ra giá trị thặng
dư ... đó là lĩnh vực duy nhất thực sự có tính chất sản xuất của lao động”


19
(Tập 24. tr. 527) và phê phán A.Smith: “Tiền công, lợi nhuận và địa tô là ba
cái nguồn ban đầu của mọi thu nhập, cũng như của mọi mọi giá trị trao đổi”
(Tập 24, tr.531) là: “sự lẫn lộn khái niệm... và giáo điều của ông là biểu
tượng tín điều chính thống của khoa kinh tế chính trị” (Tập 24, tr. 573).
C.Mác đã xác định những tiền đề lí luận để nghiên cứu tái sản xuất và lưu
thông tư bản xã hội.
Để nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội, C.Mác đã đưa ra những khái
niệm: Tư bản xã hội; tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân; chia nền sản
xuất xã hội thành 2 khu vực (mỗi khu vực đều xem xét cả về mặt giá trị và về

mua của xã hội. Nguyên nhân xét đến cùng của khủng hoảng kinh tế là do
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa gây ra.
Lí luận tái sản xuất và lưu thông tư bản xã hội của C.Mác đã chỉ ra rằng:
trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, từng xí nghiệp, từng nhà tư bản luôn tìm
mọi cách để tăng nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản, tăng hiệu quả sản xuất
kinh doanh để tăng khối lượng lợi nhuận. Nhưng trong toàn bộ nền kinh tế thì
tính tự phát, vô chính phủ là không thể khắc phục được. Khủng hoảng kinh tế
dưới chủ nghĩa tư bản là tất yếu.
Về mặt kinh tế, việc tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn, đảm bảo tính
cân đối giữa các khâu, các yếu tố của nền kinh tế là yêu cầu khách quan của
mọi nền sản xuất xã hội. Trước chủ nghĩa tư bản, do lực lượng sản xuất chưa
phát triển nên nếu có mất cân đối ở một khâu, một bộ phận nào đó của nền
sản xuất xã hội cũng chưa gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Nhưng trong
chủ nghĩa tư bản với nền kinh tế thị trường hiện đại, nếu điều đó xảy ra sẽ gây
ra những hậu quả tiêu cực cho sản xuất và đời sống.
Quyển III: Toàn bộ quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa
(C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 25 phần 1; tập 25 phần2,
Nxb CTQG, H.1995) gồm 7 phần - 52 chương.
Phần thứ nhất: gồm 7 chương, đề cập tới các khái niệm như: Phi phí sản
xuất tư bản chủ nghĩa; lợi nhuận, tỉ suất lợi nhuận. Các phạm trù, khái niệm
này được C.Mác luận giải sâu sắc cả về định tính và định lượng nhằm luận


21
giải sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành lợi nhuận; tỉ suất giá trị thặng dư
thành tỉ suất lợi nhuận.
Để sản xuất ra hàng hóa, nhà tư bản phải ứng ra một lượng tư bản nhất
định để mua tư liệu sản xuất (c) và sức lao động (v) (mua những yếu tố đầu
vào của quá trình sản xuất). Phần chi phí (c + v) đó gọi là chi phí sản xuất tư

nhưng nó là phạm trù kinh tế khách quan. Trên cơ sở chi phí sản xuất và lợi
nhuận, nhà tư bản tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh, tìm nơi đầu tư tư
bản có hiệu quả nhất.
Nghiên cứu sự chuyển hóa của giá trị thăng dư thành lợi nhuận, C.Mác đã
xác định công thức tính tỉ suất lợi nhuận, đó là tỉ lệ % giữa lượng lợi nhuận thu
được so với toàn bộ tư bản ứng trước. Tỉ suất lợi nhuận cũng là hình thái
chuyển hóa của tỉ suất giá trị thặng dư, nó phản ánh mức sinh lời của tư bản
trong các lĩnh vực đầu tư khác nhau. So sánh quan hệ giữa giá trị thặng dư với
lợi nhuận; giữa tỉ suất giá trị thặng dư với tỉ suất lợi nhuận, C.Mác cho rằng:
“Giá trị thặng dư, hay là lợi nhuận, chính là phần giá trị dôi ra ấy của giá trị
hàng hóa so với chi phí sản xuất của nó, nghĩa là phần dôi ra của tổng số lượng
lao động chứa đựng trong hàng hóa so với lượng lao động được trả công chứa
đựng trong hàng hóa (sđd tập 25, phần1, tr.74). Thực chất lợi nhuận và giá trị
thặng dư cũng là một, lợi nhuận chẳng qua là một hình thái thần bí hóa của giá
trị thặng dư. Lợi nhuận là hình thái chuyển hóa của giá trị thặng dư do lao động
sống tạo ra và được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước. Giá trị
thặng dư là nội dung bên trong được tạo ra trong quá trình sản xuất, lợi nhuận
là hình thái biểu hiện bên ngoài của giá trị thặng dư trong lưu thông.
Khi giá trị thặng dư chuyển hóa thành lợi nhuận thì tỉ suất giá trị thặng
dư cũng chuyển hóa thành tỉ suất lợi nhuận. Tỉ suất giá trị thặng dư và tỉ suất
lợi nhuận luôn có sự khác nhau cả về chất và về lượng. Về lượng, tỉ suất lợi
nhuận luôn nhỏ hơn tỉ suất giá trị thặng dư (do cơ sở so sánh khác nhau). Về
chất, tỉ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ bóc lột của tư bản đối với lao
động làm thuê còn tỉ suất lợi nhuận chỉ ra mức sinh lời của tư bản.


23
Nghiên cứu tỉ suất lợi nhuận, C.Mác còn chỉ rõ những nhân tố ảnh hưởng
đến nó, bao gồm: Tỉ suất giá trị thặng dư, tốc độ chu chuyển của tư bản, sự
tiết kiệm tư bản bất biến...

tư bản xã hội. Khi hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân thì lợi nhuận chuyển
hóa thành lợi nhuận bình quân và giá trị hàng hóa chuyển hóa thành giá cả sản
xuất. Giá cả sản xuất là giá cả được tính bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa
cộng với lợi nhuận tính theo tỉ suất lợi nhuận bình quân. Giá cả sản xuất và lợi
nhuận bình quân chính là các hình thái biểu hiện của quy luật giá trị và giá trị
thặng dư trong điều kiện tự do cạnh tranh dưới chủ nghĩa tư bản.
Phần thứ ba: Quy luật tỷ suất lợi nhuân có xu hướng giảm xuống,
gồm 3 chương.
Trong phần này, C. Mác nghiên cứu bản chất của quy luật; những nguyên
nhân ngăn trở tác dụng của quy luật; sự phát triển của các mâu thuẫn nội tại của
quy luật. Trên cơ sở đó khẳng định: tỉ suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống.
Trong phần này, C.Mác khẳng định: Do cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng
(trong điều kiện tỉ suất giá trị thặng dư không đổi) nên tỉ suất lợi nhuận có xu
hướng giảm xuống. Nhưng do cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng, nên năng suất
lao động tăng làm cho khối lượng giá trị thặng dư tăng, khối lượng lợi nhuận
tăng. Như vậy, sự giảm xuống của tỉ suất lợi nhuận (p ,) là một xu hướng.
Các nhà tư bản luôn tìm mọi biện pháp ngăn cản sự giảm xuống của tỉ suất lợi
nhuận như: Tăng ca kíp, tăng cường độ lao động, cổ phần hoá tư bản, tiết
kiệm chi phí sản xuất.
Phần thứ tư, Sự chuyển hóa tư bản - hàng hóa và tư bản - tiền tệ thành tư
bản kinh doanh hàng hóa và tư bản kinh doanh tiền tệ.
Phần này gồm 5 chương, C.Mác nghiên cứu sự chuyển hoá tư bản hàng
hoá thành tư bản tiền tệ thông qua phân tích hoạt động của tư bản kinh doanh
hàng hoá (tư bản thương nhân) và tư bản kinh doanh tiền tệ (tư bản cho vay).
C.Mác đã viết: “Tư bản thương nhân, hay tư bản thương nghiệp, chia làm hai
hình thái hay hai loại: tư bản kinh doanh hàng hóa và tư bản kinh doanh tiền
tệ; giờ đây chúng ta sẽ nghiên cứu hai hình thái tư bản này tỉ mỉ trong chừng


25



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status