LUẬN văn THẠC sĩ LUẬT học một số vấn đề lý LUẬN và THỰC TIỄN về TRÁCH NHIỆM bồi THƯỜNG THIỆT hại của NHÀ nước - Pdf 39

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta trong
công cuộc đổi mới hiện nay là tiến tới xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; trong đó
điều kiện đặt ra đối với một Nhà nước thực sự dân chủ là Nhà nước không thể
đứng cao hơn và vận hành chỉ trong khuôn khổ của pháp luật dù rằng Nhà
nước là chủ thể duy nhất trong xã hội ban hành pháp luật.
Nhà nước với tư cách là một chủ thể công quyền duy nhất trong xã
hội, được hình thành từ nhân dân và thực hiện quyền điều hành, quản lý xã
hội trong đó có những nhiệm vụ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức khi những quyền và lợi ích hợp pháp này bị xâm phạm. Để có
thể thực hiện được những nhiệm vụ này, Nhà nước phải thông qua các cơ
quan đại diện cho mình ở các ngành, các cấp chính quyền mà cụ thể là thông
qua việc thực thi công vụ của công chức nhà nước. Trong quá trình Nhà nước
thực hiện các công việc thuộc thẩm quyền của mình thông qua hành vi của
đội ngũ công chức thì một điều tất yếu là có thể gây thiệt hại cho bất kỳ cá
nhân, tổ chức nào. Ngoài việc gây thiệt hại trong quá trình thực thi công vụ,
thực tiễn còn đặt ra nhiều tình huống cụ thể mà trong đó Nhà nước có thể trực
tiếp hay gián tiếp gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức. Vấn đề đặt ra là nếu cá
nhân, tổ chức bị thiệt hại do nguyên nhân từ phía cá nhân, chủ thể khác thì
được cá nhân, tổ chức đó bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật,
vậy nếu Nhà nước gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức thì Nhà nước có phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại hay không hay Nhà nước được miễn trừ
trách nhiệm? Thực tiễn Việt Nam hiện nay đã có các văn bản quy phạm pháp
luật quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước: cụ thể là các
quy định trong Bộ luật Dân sự 1995 và nay là Bộ luật Dân sự 2005 quy định


pháp lý.


3

- Bài viết "Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng"
của TS Phùng Trung Tập - Trưởng bộ môn Luật Dân sự, Khoa Luật Dân sự,
Trường Đại học Luật Hà Nội. Trong bài viết này có đề cập đến nhiều vấn đề
trong đó có nội dung có tính chất tham khảo quan trọng cho việc nghiên cứu
đề tài của tác giả như: việc phân tích những hành vi có lỗi trong một số loại
trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng (về cơ sở xác định lỗi, hình thức lỗi),
hay khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cần phải
xác định yếu tố lỗi để có căn cứ quy trách nhiệm cho người có hành vi trái
pháp luật.
- Luận án Tiến sĩ của tác giả Lê Mai Anh: "Bồi thường thiệt hại do
người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra". Nội dung của
Luận án đề cập đến nhiều vấn đề có tính tham khảo quan trọng cho việc thực
hiện đề tài nghiên cứu của tác giả như: đặc điểm, nội dung, bản chất của trách
nhiệm nhà nước trong việc bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của
cơ quan tiến hành tố tụng gây ra khi tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử.
Ngoài ra, còn có nhiều chuyên đề, bài viết, bài nghiên cứu của một số
tác giả làm công tác xây dựng pháp luật với nội dung đề cập đến nhiều vấn đề
cơ bản phục vụ cho quá trình soạn thảo Luật Bồi thường Nhà nước (trong
chương trình chuẩn bị trong năm 2006 của Quốc hội khóa 11) cũng là những
tài liệu nghiên cứu quan trọng được tác giả lựa chọn tham khảo khi thực hiện
đề tài nghiên cứu.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn nghiên cứu những vấn đề sau:
- Một số vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của

- Nghiên cứu để tìm hiểu sơ lược về lịch sử hình thành của tư tưởng
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước;


5

- Bước đầu phân tích một số vấn đề lý luận để thừa nhận trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của Nhà nước; nêu và đánh giá thực tiễn thi hành pháp
luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước ở Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành của Việt Nam về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước;
- Trình bày, phân tích và so sánh một số chế định cơ bản trong pháp
luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước của một số quốc gia
trên thế giới;
- Kiến nghị để hoàn thiện pháp luật của Việt Nam về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Nhà nước.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Trên cơ sở những phân tích một số vấn đề lý luận cơ bản, luận văn
khẳng định việc thừa nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là
hoàn toàn phù hợp, đồng thời luận văn đưa ra cách tiếp cận mới về trách
nhiệm của Nhà nước;
- Luận văn đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật của
Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
Nhà nước
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của Nhà nước và một số kiến nghị

các yêu cầu về bồi thường nhà nước sẽ không được giải quyết và do vậy, các
đương sự phải khởi kiện theo thủ tục tố tụng tư pháp; kết quả là các hành vi vi


7

phạm pháp luật của các quan chức nhà nước được nhìn nhận như những hành
vi của cá nhân đơn thuần [5, tr. 452]. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai,
Nhật Bản ban hành Hiến pháp năm 1947, tại Điều 17 có quy định: "Mọi người
có quyền yêu cầu Nhà nước hoặc cơ quan công quyền bồi thường thiệt hại mà
họ phải gánh chịu do những hành vi trái pháp luật của các quan chức nhà
nước gây ra theo quy định của pháp luật". Đây là cơ sở pháp lý rất quan trọng
để người dân Nhật Bản có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình và cũng như cơ
sở hiến định quan trọng để xây dựng các đạo luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của Nhà nước. Cùng trong năm 1947, Nghị viện Nhật Bản đã thông
qua Luật Bồi thường nhà nước. Đạo luật này tuy chỉ có sáu (6) điều luật
nhưng đã khẳng định được ý nghĩa to lớn của nó. Nội dung cụ thể của Luật
bao gồm: Điều 1: Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
Nhà nước và điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi hoàn của công chức nhà
nước (hay trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra do thực hiện công quyền);
Điều 2: Trách nhiệm bồi thường trong trường hợp có thiệt hại xảy ra đối với
người dân do những sai sót trong việc xây dựng hoặc quản lý các con đường,
sông và các phương tiện công cộng khác (hay trách nhiệm bồi thường xảy ra
do khiếm khuyết trong xây dựng và quản lý công trình công cộng); Điều 3:
Trách nhiệm của từng cá nhân cụ thể trong hai trường hợp quy định tại hai
trường hợp trên; Điều 4: Việc áp dụng đồng thời Bộ luật Dân sự khi giải
quyết quan hệ bồi thường nhà nước; Điều 5: Việc áp dụng các đạo luật khác
trong trường hợp những đạo luật đó có quy định về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của Nhà nước trong lĩnh vực riêng biệt; Điều 6: Về nguyên tắc có đi
có lại, cụ thể là trường hợp người nước ngoài bị thiệt hại thì trường hợp nào

tuyên là trái Hiến pháp và vì vậy không có hiệu lực thi hành. Hiện nay việc
xét xử của Tòa án đối với các yêu cầu bồi thường nhà nước được thực hiện
trên cơ sở Điều 34 Hiến pháp Đức và Điều 839 Bộ luật Dân sự Đức về trách
nhiệm của công chức do vi phạm trách nhiệm công vụ [8, tr. 1].
Một quốc gia khác - Trung Quốc - nước láng giềng của Việt Nam
cũng có hệ thống pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
đã được định hình ổn định. Văn bản pháp luật hiện nay được áp dụng để giải


9

quyết các yêu cầu bồi thường nhà nước của Trung Quốc là Luật về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước được Quốc hội Trung Quốc thông
qua năm 1994. Đạo luật này quy định trách nhiệm của Nhà nước Trung Quốc
trong trường hợp các cơ quan nhà nước gây thiệt hại trái pháp luật cho cá
nhân, tổ chức; phạm vi áp dụng của đạo luật này loại trừ lĩnh vực lập pháp,
theo đó chỉ những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hành chính và tư
pháp hình sự mới thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này [17]. Khác với Luật
Bồi thường nhà nước của Nhật Bản, Luật của Trung Quốc lại quy định rất chi
tiết và cụ thể về các vấn đề, ví dụ: các trường hợp được bồi thường do xâm
phạm quyền nhân thân (Điều 3); các trường hợp được bồi thường do xâm
phạm về tài sản (Điều 4); các trường hợp Nhà nước không phải bồi thường
(Điều 5) v.v... [17]. Ngoài ra, để áp dụng Luật này trên thực tiễn, Tòa án nhân
dân tối cao Trung Quốc và Viện kiểm sát nhân dân tối cao Trung Quốc cũng
đã có văn bản hướng dẫn để thi hành.
1.1.2. Sơ lược về chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
Nhà nước của Việt Nam
Chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước đã được Nhà
nước ta ghi nhận từ sau khi thành lập nước. Điều này được thể hiện ngay từ
Hiến pháp năm 1959, Điều 29 Hiến pháp 1959 quy định: "Người bị thiệt hại

thường thiệt hại do công chức, viên chức, người có thẩm quyền của cơ quan
nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.
Trong những năm gần đây vấn đề bồi thường thiệt hại cho người bị
oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra được Đảng ta đặc
biệt quan tâm, cụ thể: Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị
chỉ rõ:
Cùng với việc phát hiện và chú trọng giải quyết kịp thời các
vụ án có dấu hiệu oan, sai, cần khẩn trương nghiên cứu xây dựng cơ
chế, chính sách để bồi thường thiệt hại với các trường hợp bị oan,
sai do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra...
Việc bồi thường thiệt hại cần thực hiện đúng trình tự thủ tục
đối với từng trường hợp cụ thể; những tài sản đã bị tịch thu, kê biên
sai thì cần hoàn trả ngay; cần làm rõ cơ sở pháp lý, trách nhiệm giữa
tập thể và cá nhân; phân định trách nhiệm từng cơ quan và cá nhân


12

tiến hành tố tụng và mức độ thiệt hại về dân sự do việc làm oan sai
gây ra... [10].
Nghị quyết số 08 -NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị yêu cầu
"... khẩn trương ban hành và thực hiện nghiêm túc các văn bản pháp luật về
bồi thường thiệt hại đối với những trường hợp oan, sai trong hoạt động tố
tụng;nghiên cứu xây dựng quỹ bồi thường thiệt hại về tư pháp..." [11].
Quán triệt đầy đủ yêu cầu Chỉ thị số 53-CT/TW và Nghị quyết số 08,
ngày 17/3/2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
388/2003/ NQ-UBTVQH11 bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người
có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra.
Ngày 25/3/2004 Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối
cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng và Bộ Tài chính đã ban hành

Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã
làm oan phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự quyền lợi cho
người bị oan; người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ
quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật [28].
Bộ luật Dân sự năm 2005 - Bộ luật điều chỉnh một lĩnh vực rộng lớn
các quan hệ dân sự của cá nhân, pháp nhân, tổ chức và thay thế Bộ luật Dân
sự năm 1995 đã tiếp tục ghi nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cán bộ
công chức và người có thẩm quyền của cơ quan tố tụng. Cụ thể:
Cơ quan tổ chức quản lý cán bộ công chức phải bồi thường
thiệt hại do cán bộ công chức của mình gây ra trong khi thi hành
công vụ.
Cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ công chức có trách nhiệm
yêu cầu cán bộ công chức phải hoàn trả một khoản tiền theo quy
định của pháp luật, nếu cán bộ công chức có lỗi trong khi thi hành
công vụ (Điều 619) [30].
Cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do
người có thẩm quyền của mình gây ra khi thực hiện nhiệm vụ trong
quá trình tố tụng


14

Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu người có
thẩm quyền đã gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy
định của pháp luật, nếu người có thẩm quyền có lỗi trong khi thi
hành nhiệm vụ (Điều 620) [30].
Như vậy, vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước Việt
Nam đã manh nha hình thành ngay từ những ngày đầu tiên thành lập nước
thông qua một số quy định cụ thể trong Hiến pháp. Chỉ đến khi Bộ luật Dân
sự 1995 được thông qua (hiện nay là Bộ luật Dân sự 2005 và một số văn bản

chịu những hậu quả pháp lý phát sinh từ những quan hệ pháp luật đó. Như
vậy, việc Nhà nước nếu gây thiệt hại thì phải có trách nhiệm bồi thường cho
bên còn lại trong quan hệ pháp luật là "câu chuyện hiển nhiên trong xã hội
mới" [22, tr. 1]. Xét về bản chất, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
thể hiện ở những nội dung cơ bản sau đây:
a) Chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là một
cơ chế pháp lý hiệu quả ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực nhà nước
Nhà nước với tư cách là chủ thể duy nhất có quyền quản lý, điều hành
xã hội thông qua quyền lực đã được ghi nhận (dù trực tiếp Nhà nước thực
hiện hoặc thông qua một cơ quan, tổ chức không phải của Nhà nước) thì thường
có xu hướng lạm dụng quyền lực. Sự lạm dụng có nhiều biểu hiện cụ thể, song
về hình thức thường là sự vi phạm pháp luật trong quá trình thực thi quyền lực,
về hậu quả thường là sự tổn hại các quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng
quản lý gây ra bởi các hành vi vi phạm pháp luật nêu trên. Chính vì vậy, chế
định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước có thể coi là một
cơ chế pháp lý gián tiếp rất hiệu quả trong số các phương pháp có thể hạn chế,
ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực của Nhà nước. Ngày 17.3.2003, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội sau khi ban hành Nghị quyết số 388/2003/NQUBTVQH11 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, nghị quyết này đã thực sự tạo ra một cơ
chế pháp lý hiệu quả để bảo vệ quyền lợi của người dân trong lĩnh vực tố tụng
hình sự. Hiện nay có quan điểm cho rằng nghị quyết này trên phương diện tổ
chức quyền lực nhà nước có bản chất là "sự hạn chế quyền lực tư pháp bởi nó
quy định trách nhiệm của quyền lực tư pháp trong trường hợp triển khai quyền


16

lực này không đúng các quy định của pháp luật" [43, tr. 39]. Đây cũng có thể coi
là một cách tiếp cận, đánh giá tương đối mới hiện nay. Nhìn từ góc độ pháp luật
dân sự, việc Nhà nước phải bồi thường cho người dân không phải là tự hạn chế

dựng và hoàn thiện mô hình mhà nước pháp quyền là Nhà nước không thể
đứng cao hơn và phải vận hành chỉ trong khuôn khổ của pháp luật dù rằng Nhà
nước là chủ thể duy nhất trong xã hội có quyền ban hành pháp luật. Khi quyền,
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị xâm phạm bởi cá nhân, tổ chức khác
thì những cá nhân, tổ chức có hành vi xâm phạm phải chịu trách nhiệm bồi
thường theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là khi quyền, lợi
ích của cá nhân, tổ chức bị Nhà nước xâm phạm thì liệu Nhà nước có phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại như những chủ thể thông thường khác? Đặt
trong bối cảnh Nhà nước không thể đứng cao hơn và phải vận hành chỉ trong
khuôn khổ của pháp luật thì tất yếu Nhà nước phải có trách nhiệm đối với các
thiệt hại mà mình gây ra cho các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Nhà nước pháp
quyền không phải là "công trình" của riêng ai. Để có được "công trình" này đòi
hỏi không chỉ nỗ lực của riêng những người có thẩm quyền "kiến thiết" mà còn
cần phải có một sự "phản hồi" từ phía xã hội. Sự phản hồi này có thể được thực
hiện thông qua nhiều phương thức, trong đó việc phát hiện ra những hành vi vi
phạm pháp luật và yêu cầu khắc phục hậu quả là phương thức phản hồi mà chế
định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước xác lập. Chế
định này không chỉ là công cụ mà qua đó Nhà nước không những kiểm soát
được hoạt động của mình, phòng ngừa vi phạm pháp luật mà qua đó Nhà nước
còn bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xã hội và
ngay cả lợi ích của chính Nhà nước - một nền pháp chế vững chắc, tính lành
mạnh và hiệu quả trong hoạt động của đội ngũ công chức - một trong những
yêu cầu quan trọng đối với Nhà nước pháp quyền.
c) Việc xây dựng chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
Nhà nước là phù hợp với yêu cầu của việc bảo đảm các quyền con người
cũng như phù hợp với xu thế chung của thế giới


18



19

trong hoạt động hành chính) [372, tr. 17]. Trong bối cảnh như vậy, không chỉ
hòa vào xu thế chung của khu vực, của thế giới mà việc thừa nhận trách
nhiệm của Nhà nước cũng là phù hợp với nền dân chủ mà chúng ta đang tích
cực xây dựng.
1.2.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong giới
hạn của chính sách pháp lý
Nhà nước và pháp luật là hai vấn đề không bao giờ tách rời nhau và có
mối quan hệ tác động qua lại. Nhà nước ban hành ra pháp luật và pháp luật
sau đó quay trở lại tác động trở lại Nhà nước. Chính sách của Nhà nước được
thể hiện thông qua công cụ chủ yếu là pháp luật, vì vậy việc mỗi Nhà nước
nhìn nhận như thế nào về vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước mà sẽ ban hành chế định pháp luật tương ứng. Ngoài ra, đặt trong bối
cảnh của từng khu vực địa lý cũng như đặc thù truyền thống pháp luật của
từng nước mà việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước ở
mức độ nào, hình thức thể hiện trong pháp luật ra sao sẽ thể hiện rõ chính
sách pháp lý của mỗi quốc gia đối với vấn đề này. Việc xem xét một số nội
dung cơ bản của chính sách pháp lý đối với vấn đề trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng mô hình
pháp lý về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước và được thể hiện ở
những đặc điểm sau:
a) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong mối quan
hệ với địa vị pháp lý của Nhà nước khi tham gia một quan hệ pháp luật
Nhà nước khi tham gia vào các quan hệ pháp luật thì tùy vào các quan
hệ cụ thể mà tư cách của Nhà nước sẽ rất khác nhau. Nếu căn cứ vào tính chất
của quan hệ pháp luật mà Nhà nước tham gia thì tư cách này rất đa dạng, tuy
nhiên, lấy tiêu chí là Nhà nước có thực hiện hay không chức năng quản lý,
điều hành xã hội khi tham gia một quan hệ pháp luật thì có thể phân chia

hại của Nhà nước chỉ điều chỉnh quan hệ bồi thường thiệt hại phát sinh giữa
Nhà nước và bên còn lại bị thiệt hại gây ra bởi hoạt động của Nhà nước khi
nhân danh quyền lực công. Hoạt động của Nhà nước gồm những hoạt động
hợp pháp và hoạt động không hợp pháp; về nguyên tắc, công chức khi thực


21

thi công vụ của Nhà nước gây thiệt hại trái pháp luật cho cá nhân, tổ chức thì
Nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường. Vấn đề đặt ra là nếu việc thực thi
công vụ hoàn toàn đúng pháp luật nhưng xét về kết quả thì vẫn gây ra thiệt
hại cho cá nhân, tổ chức thì trong trường hợp này Nhà nước có phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại hay không? Nếu Nhà nước phải chịu trách nhiệm
bồi thường thì tính chất của trách nhiệm này có tương tự với tính chất của
trách nhiệm mà Nhà nước phải gánh chịu do gây thiệt hại trái pháp luật hay
không? Về lý luận, việc bồi thường chỉ đặt ra trong trường hợp có hành vi gây
thiệt hại trái pháp luật của bên này đối với một bên khác. Trường hợp bồi
thường không do lỗi cũng chỉ được đặt ra trong một số trường hợp đặc biệt.
Ví dụ: Bộ luật Dân sự 2005, Điều 604 khoản 2 quy định: "Trong trường hợp
pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp
không có lỗi thì áp dụng quy định đó." và trong toàn bộ các quy định trong
Chương XXI về Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chỉ có duy
nhất Điều 623 khi quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra là có quy định về trách nhiệm bồi thường cả trong
trường hợp không có lỗi. Đứng ở vị trí là Nhà nước thì chắc chắn Nhà nước
"mong muốn" chỉ phải bồi thường trong trường hợp gây thiệt hại trái pháp
luật; tuy nhiên đứng ở vị trí của người bị thiệt hại thì nếu Nhà nước không
phải bồi thường cho họ cho dù việc gây thiệt hại của Nhà nước là không trái
pháp luật sẽ là rất bất công vì hoạt động công quyền của Nhà nước được thực
hiện là nhằm mục đích chung, vì lợi ích chung.

hoạt động nào ra khỏi phạm vi điều chỉnh của pháp luật bồi thường thiệt hại
của Nhà nước song cũng không ít quốc gia loại trừ một hoặc hai lĩnh vực.
Pháp luật của Nhật Bản không quy định lĩnh vực nào thì chịu sự điều chỉnh
của Luật Bồi thường nhà nước Nhật Bản - điều này đồng nghĩa với việc
"không quy định" tức là "không loại trừ" (xem Điều 1 Luật Bồi thường nhà
nước Nhật Bản). Điều này cũng được các chuyên gia pháp lý Nhật Bản khẳng
định [19, tr. 9]. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng Luật Bồi thường nhà nước Nhật
Bản cho thấy lĩnh vực lập pháp là lĩnh vực rất nhạy cảm, vì vậy, dù không
loại trừ song việc Tòa án khi xét xử các vụ kiện về yêu cầu bồi thường đối với
hoạt động lập pháp cũng là rất hạn chế vì:


23

(1) hoạt động lập pháp là hoạt động mang tính quốc gia và
về nguyên tắc những hoạt động mang tính quốc gia được loại trừ
khỏi sự tác động của hoạt động tư pháp; (2) Về mặt chính trị, Nhà
nước mà cụ thể là Quốc hội ban hành một đạo luật bị coi là vi hiến
thì có thể xác định sự sai sót này của Quốc hội là hậu quả của hoạt
động bầu cử - nói cách khác sai sót không phải do quá trình lập
pháp mà là do sự lựa chọn khi bầu cử [34, tr. 8].
Pháp luật của Hoa Kỳ chỉ quy định trách nhiệm đối với hoạt động
hành chính, loại trừ trách nhiệm nhà nước đối với lĩnh vực lập pháp và tư
pháp [37, tr. 17]. Pháp luật của Trung Quốc, nước có nhiều điểm tương đồng
nhất với Việt Nam, cũng loại trừ hoạt động lập pháp ra khỏi phạm vi điều
chỉnh của Luật Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước. Trong đạo
luật này chỉ có hai chương khi quy định về các lĩnh vực hoạt động của Nhà
nước là Chương II về Bồi thường hành chính và Chương III về Bồi thường
hình sự. Nhìn chung, đa số các nước quy định rất hạn chế về lĩnh vực lập
pháp, sự hạn chế có thể là loại trừ hoặc là sự hạn chế áp dụng pháp luật để


1.3.1. Khái niệm thiệt hại và bồi thường thiệt hại
Thiệt hại được hiểu là "mất mát, hư hỏng nặng nề về người và
của" [45, tr. 1571]. Quan điểm truyền thống của pháp luật dân sự luôn coi
thiệt hại là những tổn thất có liên quan đến tài sản; tuy nhiên theo những quan
điểm hiện nay thì thiệt hại bao gồm không chỉ những tổn thất về tài sản. Theo
Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội thì thiệt
hại là "tổn thất về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân,
tổ chức được pháp luật bảo vệ" [39, tr. 118]. Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 1995
quy định tại Điều 310: "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm
bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần".
Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 quy định tại Điều 305: "Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách
nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần." Như vậy, về mặt khoa học và
luật thực định thì quan điểm phổ biến hiện nay về thiệt hại là thiệt hại bao
gồm: thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần [2, tr. 12], [45, tr. 713].


25

Thiệt hại về tinh thần bao gồm "tổn thất về danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc
suy sụp về tâm lý, tình cảm của cá nhân" và thiệt hại về vật chất bao gồm "tài
sản bị mất, hủy hoại, bị hư hỏng; chi phí phải bỏ ra để khắc phục, ngăn chặn
thiệt hại cùng những hoa lợi, lợi tức không thu được mà đáng ra thu được".
Tóm lại, thiệt hại có thể hiểu là sự không nguyên vẹn như trạng thái ban đầu
của sự vật sau khi chịu sự tác động từ bên ngoài.
Bồi thường là việc "đền bù những tổn thất đã gây ra" [45, tr. 191]. Về
mặt pháp lý, bồi thường thiệt hại là một dạng nghĩa vụ dân sự phát sinh do
gây thiệt hại. Trong pháp luật dân sự, bồi thường thiệt hại là việc đền bù
những tổn thất và khắc phục những hậu quả do hành vi vi phạm gây ra; vì vậy


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status