LICH SU GD QTRI - Pdf 48

LỊCH SỬ GIÁO DỤC QUẢNG TRỊ
PHẦN MỞ ĐẦU:
MẢNH ĐẤT CON NGƯỜI VÀ SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
QUẢNG TRỊ (1945 - 2000)
--------------
Ở vị trí bản lề của đất nước, lưng tựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, mặt
hướng ra biển Đông bao la, với diện tích 4.795km
2
, với dân số 608.950 người và
với 7 huyện, 2 thị xã, 136 xã phường - Quảng Trị là một tỉnh đất không rộng,
người không đông nhưng là địa bàn có ý nghĩa chiến lược và đã từng có một lịch
sử rất đặc thù.
Phải đến năm Minh Mạng thứ 13 (năm 1832) thì Quảng Trị với tư cách là
một đơn vị hành chính cấp tỉnh mới chính thức hình thành nhưng lịch sử của
vùng đất đã có từ xa xưa. Những bằng chứng xác thực về khảo cổ học cho thấy
hàng vạn năm trước những tộc người thuộc ngữ hệ Môn - Khơ me sống trên triền
đông - tây Trường Sơn và những tộc người thuộc ngữ hệ Mã Lai - Đa đảo sống ở
các vùng đồng bằng ven biển là những chủ nhân đầu tiên đã sớm cùng cộng cư ở
đây. Chính họ là những người đi tiên phong trong công cuộc khai sơn phá thạch
xây dựng vùng đất này.
Trong lịch sử, Quảng Trị đã từng chịu nhiều biến động, xáo trộn và cắt chia.
Nguyên là một phần trong bộ Việt Thường của nước Văn Lang - Âu Lạc đến thời
kỳ Hán thuộc là một phần của quận Nhật Nam (từ năm 179 trước Công nguyên).
Tiếp đó là một phần của Vương quốc Chămpa (gồm châu Ô và một phần châu
Ma Linh). Đến 1069 với võ công của nhà Lý, từ Bắc cầu Đông Hà được trả về
Đại Việt nhưng phải đến tháng 6/1306, sau cuộc tình nhuốm màu sắc chính trị
của Huyền Trân công chúa với vua Chăm là Chế Mân thì cả tỉnh Quảng Trị mới
hoàn tất việc trở về đất mẹ Việt Nam. Nhưng thế kỷ XV, Quảng Trị trở thành
chiến trường ác liệt với quân xâm lược nhà Minh. Rồi các thế kỷ tiếp nối lại là
vùng tranh chấp ác liệt giữa các tập đoàn thống trị: Lê-Mạc, Trịnh-Mạc, Nguyễn-
Mạc và Trịnh-Nguyễn. Trong thời kỳ hiện đại, khi dân tộc ta tiến hành hai cuộc

Đừng than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây
Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà trong cổ sử vẫn gọi Quảng Trị là: "Trấn
biên", "trọng trấn", "phên dậu", "cửa ngõ"... phía nam tổ quốc. Càng không phải
vô tình khi ba lần trong ba thời điểm cam go lịch sử đã chọn Quảng Trị làm "thủ
phủ":
- Lần 1: (1558-1626) Nguyễn Hoàng chọn làm nơi định đô dinh chúa để khởi
động sự nghiệp nhà Nguyễn .
- Lần 2: Năm 1885, vua Hàm Nghi xây thành Tân Sở (Cam Lộ) để dựng cờ cần
vương cứu nước, chống ngoại xâm.
- Lần 3: Năm 1973, thị trấn Cam Lộ vinh dự được chọn đặt trụ sở của chính phủ
Cộng hoà miền Nam Việt Nam để thay mặt toàn miền Nam tiếp nhận quốc thư
của các đại sứ.
Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại, khi Quảng Trị trở thành
"tuyến đầu của Tổ quốc", hàng vạn người con ưu tú của đất Việt đã về đây tụ
nghĩa, cùng quân và dân Quảng Trị làm nên những chiến công lẫy lừng. Nhiều
tên đất, tên làng, tên núi, tên sông của Quảng Trị đã không chỉ còn là một địa
danh thông thường mà đã thành những biểu trưng về một thời oanh liệt của dân
tộc. Vinh dự thay khi đã có 57 cá nhân, 130 đơn vị, 100% huyện -
----------------------------------------------------------------------------------------------
(1) Lịch sử Đảng bộ Quảng Trị - NXB Chính trị quốc gia .Trang 19
thị xã và toàn tỉnh Quảng Trị đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý
nhất: Danh hiệu anh hùng. (Trong đó có 2 trường học và 1 thầy giáo là Anh hùng
lao động).
Đặc điểm của vùng đất và con người nói trên đã chi phối sâu sắc quá trình
hình thành và phát triển nền giáo dục Quảng Trị. Nếu như thực tế của chiến
tranh, thiên tai cùng những xáo trộn, chia cắt và với khoảng cách xa các đô thị
lớn đã kìm hãm, cản trở sự phát triển thì ngược lại với khát vọng sống, khát vọng
muốn vươn lên và bản chất cần cù, chịu thương, chịu khó của con người đã là
nguyên nhân tạo nên sức sống bên trong của nền giáo dục trên mảnh đất này.

). Riêng về phát triển giáo dục, thì đúng
như nhận định của nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Long: "Thời chúa Nguyễn mới
vào phải tiếp tục lo mở mang bờ cõi, tổ chức cho dân khai phá đất đai, tổ chức
chính quyền cai trị, tuyển mộ binh lính, tích trữ lương thực, đào hầm đắp luỹ để
chuẩn bị đối phó với chúa Trịnh, vì vậy vấn đề giáo dục được ở hàng thứ yếu...
Mãi đến 1674, chúa Nguyễn Phúc Tấn mới mở khoa thi Chính đồ và Hoa Văn...".
(
2
) Tuy nhiên trong 68 năm đóng ở Quảng Trị, với những chính sách tích cực của
mình, Nguyễn Hoàng đã góp phần đáng kể cho sự phát triển giáo dục. Theo tư
liệu của giáo sư Nguyễn Quang Ngọc (
3
) thì từ 1660 đã có các kỳ thi tuyển chọn
nhân tài mà nội dung đã chú trọng đến các kiến thức thực tế của người dự tuyển.
Nguyễn Hoàng thực hiện chọn người vào bộ máy cai trị bằng cả hai cơ chế:
--------------------------------------------------------------------------------------------------
(
1
)Lịch sử ngành Văn hoá - Thông tin Quảng Trị - NXB 2001 . Trang 10.
(2)Nho học Việt Nam - NXB Giáo dục -1995
(1): Lịch sử ngành Văn hoá tư tưởng Quảng Trị, trang 11- xuất bản năm 2001
(3)Tiến trình lịch sử Việt Nam - Nguyễn Quang Ngọc (NXB Giáo dục-năm 2000,
Trang 160)
tiến cử và thi tuyển. Nhờ những chính sách tiến bộ này mà tại một số làng, xã đã
lập đền Văn Thánh thờ Khổng Tử, nhiều làng xây dựng các hương ước, khoán
ước khích lệ sự học, phong trào đi học đã có những khởi động tích cực. Học lúc
này là Nho học với vị thánh là Khổng Tử nên đã có một tục lệ mới ra đời: trước
khi cho con đi học, gia đình đưa con đến đền Văn Thánh khấn lạy với lễ vật là
một con gà, một đĩa xôi, sau đó mới gửi con cho một ông đồ nho dạy chữ Hán để
học. Như vậy, thế kỷ XVI-XVII, thời chúa Nguyễn, tuy chưa có gì nổi trội nhưng

thời Thành Thái (1907) chuyển về phía nam tỉnh lỵ. Lúc này, tỉnh có hai phủ
(Triệu Phong- Cam Lộ) có quan Giáo thụ, có ba huyện thuộc phủ Triệu Phong
(Vĩnh Linh -Do Linh -Hải Lăng) có quan huấn đạo. Ngoài các trường đã có tại
tỉnh và hai phủ, các trường mới ở các huyện được hình thành. Học xá của huyện
Do Linh ra đời vào thời Thành Thái thứ 2 (1890) và học xá tại Cam Lộ ra đời vào
năm Thành Thái thứ 17 (1905). Như vậy so với các thời trước, các trường học đã
được phát triển khá hơn nhất là vào thời Minh Mạng, Tự Đức. Đây là các trường
quốc lập và được tổ chức, quản lý khá chặt chẽ. Tại làng xã không có trường
công lập mà chỉ có trường dân lập hoặc học tại tư gia: "Trong dân gian thì xưa
nay việc học tập vẫn hoàn toàn tự dân lo liệu lấy. Thầy học thì có từ thầy khoá,
thầy đồ, thầy tư dạy trẻ con cho đến bậc đại khoa" (
2
). Đây cũng là thời kỳ phát
triển việc xây dựng các hương ước, khoán ước với các quy định rất cụ thể phục
vụ cho việc phát triển sự học.
Về hình thức tổ chức học tại các làng xã, ở Quảng Trị không có gì khác so
với nhiều địa phương khác mà nhà nghiên cứu nho học Nguyễn Thế Long đã
khái quát: "Lớp học thường đặt ở nhà thầy đồ hoặc một nhà giàu đứng ra mời
thầy về dạy con mình và trẻ em gần đó. Thầy giáo ngồi trên phản hoặc chõng, học
sinh trải chiếu ra sàn để học hoặc nằm phủ phục để viết. Có bốn mức về trình độ:
Mông học; ấu học, Trung tập và sau đó lên học bậc Đại tập ở tỉnh, rồi tham gia
các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình do Triều Đình tổ chức"
----------------------------------------------------------------------------------------
(
1
)

Đại Nam thực lục chính biên - NXB Sử học, năm 1962, Trang 34)
(2) Đào Duy Anh - Việt Nam văn hoá sử cương. NXB Đồng Tháp, 1998
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, biến nước ta thành một xã hội

ngoại giao, văn hoá, khoa học tên tuổi đóng góp xứng đáng cho nước nhà. Tiêu
biểu như Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, các đồng chí Trần Hữu Dực, Trần Quỳnh,
Đoàn Khuê, Đặng Thí, Trần Hoàn, Nguyễn Hữu Khiếu, Lê Chưởng... và nhiều
đồng chí khác.
Nhìn một cách xuyên suốt cả một quá trình lịch sử cho đến năm 1945, trên
đất Quảng Trị đã từng có hai dòng giáo dục: giáo dục dân gian và giáo dục chính
quy. Dòng giáo dục dân gian là dòng giáo dục mà các thế hệ người Quảng Trị đã
truyền lại cho nhau những tri thức, những kinh nghiệm trong lao động, đánh giặc
và tổ chức cuộc sống. Dòng giáo dục chính quy quy do Nhà nước phong kiến và
thực dân Pháp tổ chức, tuy có những tăng tiến nhất định theo thời gian nhưng về
cơ bản từ hệ thống tổ chức đến quy mô trường lớp, số lượng người học, cơ sở vật
chất kỹ thuật... đều phát triển chậm, nhỏ bé và không có gì đặc sắc nổi trội so với
các địa phương khác. Điều quan trọng và có ý nghĩa nhất là ý thức, thái độ và kết
quả trong sự học của con người Quảng Trị trong hoàn cảnh thực tế khó khăn đó.
Rõ ràng là con người Quảng Trị phải vừa học một phần trong trường học vừa
phải học nhiều ở trường đời, học một phần với thầy còn lại phải tự học, tự hoàn
thiện bản thân. Khó khăn càng nhiều thì sự khổ học càng lớn, sự khuyến khích,
hỗ trợ từ gia đình dòng họ, cộng đồng càng cao. Đã có hai sự thật rất đáng trân
trọng:
Một là: Truyền thống hiếu học. Do những thiệt thòi riêng mà trừ danh nhân
Bùi Dục Tài, còn lại người Quảng Trị hầu hết đỗ đạt vào thời triều Nguyễn. Theo
thống kê từ các kỳ thi, Quảng Trị đã có 166 vị đỗ cử nhân, 10 vị đỗ phó bảng và
17 vị đỗ tiến sĩ (xem bảng phụ lục đính kèm). Trong một thời gian không dài lại
với một số dân ít ỏi, đó là một tỉ lệ không thấp so với các địa phương khác.
Nhưng nếu cộng chung một quá trình dài thì số lượng đó nhỏ hơn nhiều so với
các tỉnh có điều kiện phát triển giáo dục sớm, nhất là các tỉnh ngoài Bắc. Vì vậy
sẽ là không hợp lý nếu nói Quảng Trị là tỉnh có truyền thống khoa bảng. Nhưng
điều vô cùng quý báu và đáng trân trọng chính là con đường vượt qua nhọc nhằn,
khó khăn với lòng khát vọng để khổ học để thành tài của các danh nhân này.
Trong số đó, tấm gương của Bùi Dục Tài mãi mãi là tấm gương sáng để mọi thế

được xây dựng sớm ở Quảng Trị. Ngay từ tháng 6 năm Giáp Ngọ (1774) hương
ước làng Phú Kinh (Hải Hoà, Hải Lăng) đã ghi rõ: "Ai ai cũng phải học, học chữ,
học nghề, học lễ nghĩa". Như vậy là cách đây gần 300 năm, người dân Phú Kinh
đã có ý thức rằng không phải một số người mà "ai ai" cũng phải học và không chỉ
học để có kiến thức mà học để còn làm việc có hiệu quả hơn và làm người tốt
hơn. Ngày 25-6-1856, bản khoán ước của làng Cu Hoan (Hải Thiện, Hải Lăng)
quy định cụ thể việc tạo điều kiện cho sự học: "Trích 9 mẫu hạ điền, 5 sào thu
điền cấp cho việc học... giao cho lý dịch 3 mẫu, giá 48 quan để lo tế xuân thu nhị
kỳ, còn 6 mẫu với giá 100 quan chuẩn cấp cho việc mời thầy dạy, 5 sào còn lại
chuẩn cấp cho phu trường". Nhiều làng khác ngoài nội dung trên đã quy ước rất
cụ thể về các điều khoản để khuyến khích ngươì dạy, người học. Chẳng hạn:
"Học trò nghèo chăm học được làng trợ cấp, đi thi được cấp tiền, gạo làm lệ phí
nhằm giúp con em chú tâm vào đèn sách và ứng thi thành đạt". Hay: "Những ai
khai khoa tiến sĩ văn-võ, bản xã làm một lễ tạ tam sinh (lợn, trâu, dê) lại được
mừng tiền 10 quan, ngoài ra gia thưởng một mẫu ruộng canh tác suốt đời. Ai đỗ
cử nhân văn - võ, thì bản xã mổ trâu lễ tạ, được thưởng 8 quan, gia thưởng 5 sào
ruộng canh tác suốt đời. Những ai đỗ tú tài, bản xã làm lễ tạ một bò, mừng tiền 5
quan, gia thưởng 3 sào ruộng..."(
1
) Thành đạt của các vị đại khoa, ngoài niềm say
mê và ý chí của chính họ còn có biết bao công lao tần tảo của những người vợ,
một nắng hai sương của các bậc cha mẹ, sự hỗ trợ, khuyến khích của dòng họ,
xóm làng... Những khuyến khích, hỗ trợ học hành này đã góp phần trực tiếp cho
họ thành đạt và khi họ đã thành đạt thì đó là niềm vui, niềm kiêu hãnh to lớn của
gia đình, dòng họ, làng xóm. Khi học, khi thi được cả cộng đồng khích lệ, giúp
đỡ, khi thành đạt thì được cả làng xã hân hoan đón rước, khi mất thì được làng
xóm chăm lo hậu sự, thờ cúng thành kính.
Tóm lại, qua một quá trình dài dưới chế độ phong kiến và thực dân Pháp,
nền giáo dục chính quy trên đất Quảng Trị là nhỏ bé và cách xa với yêu cầu của
cuộc sống. Những tài sản to lớn mà lịch sử đã để lại đó là: truyền thống hiếu học

tinh thần ái quốc, bồi dưỡng cán bộ cho công cuộc kháng chiến. Trong công trình
"Việt Nam chống nạn thất học" của Bộ giáo dục xuất bản đã đánh giá cao những
nỗ lực phát triển của giáo dục Quảng Trị trong thơì gian này vì những cố gắng
đó.
- Giai đoạn 2 (1954-1975): Phát triển giáo dục trong thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ.
Sau hiệp nghị Giơ-ne-vơ 1954, nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền.
Lưỡi dao chia cắt đó cắt đúng vào mảnh đất Quảng Trị. Huyện Vĩnh Linh thuộc
miền Bắc XHCN, phần còn lại thuộc chính quyền Mỹ, Nguỵ. Quảng Trị "như
hình ảnh của nước Việt Nam thu nhỏ, hai khu vực với hai chế độ khác nhau, trong
cùng một lúc phải đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân
tộc dân chủ ở miền Nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc". (
1
)
---------------------------------------------------------------------------------------------
(
1
) Lịch sử Đảng bộ Quảng Trị (trang 10, tập II)
Quảng Trị trở thành nơi đối đầu khốc liệt nhất. 20 năm của cuộc chiến,
nhiều tỉnh thành bị tàn phá nhưng không có tỉnh thành nào lại bị tàn phá nặng nề
như Quảng Trị. Trong lịch sử, Quảng Trị đã từng chịu thách thức bởi chiến tranh
nhưng đây là những năm tháng nghiệt ngã nhất. Cả phía bắc lẫn phía nam, từ
(1): Xem T¹p chÝ Cöa ViÖt (sè 15/1992)
miền núi đến miền biển, cả đô thị cũng như đồng bằng, tất cả đều bị bom đạn,
chất độc hoá học cày xới. Toàn tỉnh là một cảnh hoang tàn đổ nát. (Bình quân
mỗi người dân phải chịu 7 tấn bom, sau chiến tranh chỉ còn lại 3 làng tương đối
nguyên vẹn, bình quân 5 người dân có 1 người chết hoặc thương tật...)
Khu vực Vĩnh Linh - một đặc khu, về hành chính ngang cấp tỉnh - đã tận lực
phát triển giáo dục nhưng với ba giai đoạn khác nhau:
• Từ 1954-1965 là giai đoạn phát triển mạnh mẽ các ngành học và đã có những

những nỗ lực tối đa tại chỗ, sự chỉ đạo của Bộ, kinh nghiệm của giáo dục miền
Bắc và sự giúp đỡ chí tình của các tỉnh hậu phương có vai trò to lớn cho sự phát
triển giáo dục của vùng đất Quảng Trị.
- Giai đoạn 3 (1976-1989): Phát triển giáo dục trong tỉnh Bình Trị Thiên
thống nhất.
Năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi - Tổ quốc thống
nhất, cả nước bước vào một thời kỳ mới của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Tháng 7-1976, thực hiện chủ trương hợp tỉnh, bốn Ty giáo dục: Quảng
Bình, Vĩnh Linh, Quảng Trị, Thừa Thiên được hợp nhất thành Ty giáo dục Bình
Trị Thiên. Từ cơ sở đang có ba loại hệ thống giáo dục: hệ thống giáo dục 10 năm
(Quảng Bình, Vĩnh Linh), hệ giáo dục 12 năm của vùng giải phóng (Quảng Trị)
và hệ 12 năm của chính quyền cũ. Việc hợp nhất hệ thống giáo dục đã được thực
hiện một cách tốt đẹp trong một chương trình thống nhất và hợp lý. Thực hiện
nghị quyết của tỉnh uỷ Bình Trị Thiên ngày 5/3/1977, tại Quảng Trị, từ 8 huyện,
thị được tổ chức lại thành 4 huyện có quy mô lớn hơn: Bến Hải, Triệu Hải,
Hướng Hoá và thị xã Đông Hà. Mặc dù xa trung tâm của tỉnh (Huế) lại gặp rất
nhiều khó khăn về cơ sở vật chất kỹ thuật và đời sống (do bị tàn phá nặng nề của
chiến tranh chưa có thời gian và điều kiện để khắc phục) nhưng giáo dục trên địa
bàn Quảng Trị vẫn được phát triển mạnh. Mạng lưới trường lớp, quy mô các
ngành học đều tăng rõ rệt từng năm, các cuộc vận động lớn như "tăng cường giáo
dục đạo đức cách mạng", "gắn chặt hơn nữa nhà trường với cuộc sống", "học đi
đôi với hành"... được dấy lên sôi nổi và do đó chất lượng đào tạo đã có những
tiến bộ nổi trội. Các điển hình tiên tiến của các đơn vị giáo dục tại Quảng Trị
không chỉ là điển hình của Bình Trị Thiên mà còn có ý nghĩa đối với cả nước:
Trường PTCS Vĩnh Thuỷ với sự kiện ba học sinh cứu cả đoàn tàu trở thành lá cờ
đầu về giáo dục đaọ đức cách mạng cho học sinh. Phong trào mẫu giáo xã Hải
Tân trở thành ngọn cờ đầu mẫu giáo nông thôn cả nước khi huy động được 100%
số cháu trong độ tuổi. Huyện Triệu Hải trở thành điểm sáng về bồi dưỡng học
sinh giỏi khi có học sinh đoạt giải nhất văn và toán toàn quốc, trường trung học
Cồn Tiên trở thành lá cờ đầu trường học trồng cây khi trồng được nửa triệu cây.

và đầy sáng tạo trong công tác nhất là sáng kiến độc đáo "Nội trú dân nuôi" đã trở
thành anh hùng lao động. Các huyện, xã đồng bằng tổ chức kết nghĩa, tự cử thầy
giáo cùng sách, tài liệu trực tiếp giúp các xã vùng núi khó khăn. Vì vậy, năm
1998, Quảng Trị đã là tỉnh thứ 18 của cả nước (thứ 3 của miền Nam) được công
nhận hoàn thành xoá mù chữ - phổ cập tiểu học và đến nay, 2/3 huyện, thị xã,
phường đạt chuẩn phổ cập PTCS. Nhằm phát huy tối đa sức mạnh nội lực, phong
trào xã hội hoá giáo dục thành công nhất là hình thức Đại hội giáo dục xã -
huyện được bắt đầu từ năm 1990-1991. Đồng chí Bí thư tỉnh uỷ Nguyễn Đức
Hoan đã trực tiếp chỉ đạo đại hội điểm xã Triệu Đông để từ đó "nhân" rộng ra
toàn tỉnh. Giáo dục Quảng Trị tạo được một cách làm mới: cộng đồng được biết,
được bàn và tham gia giải quyết một số vấn đề giáo dục của địa phương bằng khả
năng của chính mình. Trong hoàn cảnh nghèo khó và còn nhiều thiếu thốn, đây là
một giải pháp rất có ý nghĩa để vừa ổn định vừa phát triển giáo dục. Nhiều biện
pháp để tranh thủ "ngoại lực" được chú trọng tổ chức, từ cách chương trình của
Bộ, sự giúp đỡ của các tỉnh, các ngành và những giúp đỡ thiết thực của các tổ
chức quốc tế đã hỗ trợ nhiều cho sự phát triển của ngành. Riêng việc chỉ có 5
trường hai tầng do UNICEF đầu tư đã xuống cấp nghiêm trọng năm 1990 mà nay
đã có 180 trường hai, ba tầng kiên cố, khang trang đã là một minh chứng rõ ràng.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng VII và tiếp đó là Nghị quyết BCHTW
về Giáo dục - đào tạo, phong trào "xã hội hoá giáo dục" cũng như phong trào thi
đua "Hai tốt", "kỷ cương - tình thương - trách nhiệm" trong nhà trường càng
được đẩy mạnh, giáo dục Quảng Trị đã phát triển một cách toàn diện. Trên một
"nền" chung được tăng khá nhanh hàng năm, các điển hình "mũi nhọn" cũng
được hình thành một cách thuyết phục. Vượt qua khó khăn, Quảng Trị đã là tỉnh
đi tiên phong trong việc đưa tin học vào nhà trường từ 1989-1990 và sớm ứng
dụng công nghệ thông tin trong một số hoạt động tác nghiệp của ngành. Bộ đánh
giá cao và một số tỉnh đã đến trao đổi, học tập việc làm này. Việc phát hiện, bồi
dưỡng học sinh giỏi cũng được chú trọng ngày từ khi tỉnh lập lại. Việc một tỉnh
xa nhiều khó khăn như Quảng Trị đã có học sinh đoạt giải nhất quốc gia về tin
học, về môn sinh vật (cấp PTTH), thủ khoa một số trường đại học và các giải

HÌNH THÀNH GIÁO DỤC CÁCH MẠNG
Cách mạng tháng Tám thành công khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc. Chính phủ
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đứng đầu là Hồ Chủ Tịch đã kịp thời kêu gọi
"Tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở Đại học và Trung học,
cải cách học theo tinh t hần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ" (
1
). Hồ Chí Minh,
vị lãnh tụ cách mạng đầu tiên đã nhận thức đúng vai trò, vị trí của giáo dục đối
với sự phát triển của đất nước, vì vậy ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng
Chính phủ, ngày 03 tháng 9 năm 1945 Người đã đưa ra đề nghị: "Nạn dốt là một
trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân Pháp dùng để cai trị chúng ta".
Hơn 95% đồng bào chúng ta mù chữ. Nhưng chỉ cần 3 tháng là đủ để học đọc,
học viết tiếng ta theo vần quốc ngữ. "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy
tôi đề nghị mở chiến dịch chống nạn mù chữ" (
2
). Đề nghị đó của Hồ Chủ Tịch trở
thành Quyết định của Hội đồng Chính phủ và 3 Sắc lệnh quan trọng được ban
hành. Sắc lệnh số 17/SL thành lập Nha Bình dân học vụ (8/9/1945); sắc lệnh số
19/SL hạn định trong 6 tháng các làng xã, thôn bản phải tổ chức học chữ Quốc
ngữ, sắc lệnh 20/SL:
-------------------------------------------------------------------------------
(
1
) Kháng chiến kiến quốc, Chỉ thị của BCHTW Đảng NXB Sự thật Hà Nội trang
19,20
(
2
) Hồ Chủ tịch bàn về Giáo dục. NXB Giáo dục
Xây dựng nền giáo dục cách mạng: Vì dân, do dân và được xây dựng trên nguyên

1
) có sáng
kiến lập cổng chào qua làng, làm cổng chợ, dựng cổng bến đò viết sẵn chữ liên
quan bắt buộc mọi người phải đọc được mới cho qua. Phong trào học chữ trở
thành phong trào cách mạng, tạo ra một không khí rộn ràng, tươi sáng làm át đi
những khó khăn, thiếu thốn trong đời sống của người dân, tạo ra niền tin vào chế
độ mới, giữ vững chính quyền cách mạng, tổ chức diệt dốt thành công. Chưa đầy
1 năm, Quảng Trị đã có trên một vạn người đọc thông viết thạo, làm được 4 phép
tính cộng , trừ, nhân , chia. Lực lượng trẻ ở các lớp "ấu trỉ viên" (
2
). Sáng kiến
của ông Trương Quang Phiên Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh được
áp dụng khắp cả tỉnh. Những ấu trỉ viên hàng tháng tổ chức lửa trại, diễn kịch, ca
hỏt, nhy mỳa... ó tp hp c nhõn dõn hng v cỏch mng, ra sc tng gia
sn xut phc v kiờn quc.
Thỏng 9 nm 1945 nhõn dp khai ging nm hc u tiờn ca nc Vit Nam
dõn ch cng hũa, H Ch Tch ó gi th cho hc sinh c nc. Trong th
Ngi ó ch rừ s khỏc bit gia nn giỏo dc mi v giỏo dc nụ l ca thc
dõn Phỏp. "Ngy nay cỏc chỏu c cỏi may mn hn cha anh l c hng mt
nn giỏo dc ca mt nc c lp, mt nn giỏo dc s o to cỏc chỏu nờn
nhng ngi cụng dõn cú ớch cho nc Vit Nam, mt nn giỏo dc lm phỏt trin
hon ton nhng nng lc sn cú ca cỏc chỏu" (
3
)
Th ca Ch tch Nc n vi th h tr bng nhng li khuyờn õn cn thit
tha, tin tng. ng thi giao phú trng trỏch ln lao cho th h tr i vi tng
lai t nc: "Non sụng Vit Nam cú tr nờn v vang hay khụng , dõn tc Vit
Nam cú c v vang sỏnh vai cỏc cng quc nm chõu hay khụng, chớnh l nh
mt phn ln cụng hc tp ca cỏc chỏu" (
1

) Họử Chuớ Tởch baỡn vóử giaùo duỷc, Saùch õaợ dỏựn trang 24
Hai ngành học Tiểu học vụ và Bình dân học vụ cùng tồn tại và phát triển
song song. Cái khó khăn lớn nhất của năm học này là sách giáo khoa bằng Tiếng
Việt. Những bộ môn thuộc khoa học xã hội được khắc phục bằng các bài báo
"Nhân dân", báo "Tia sáng" (
1
) giáo viên tự biên tập về Lịch sử , Địa lý. Những
bộ môn khoa học tự nhiên giáo viên phải dịch từ sách giáo khoa của Pháp. Ty
Giáo dục cử 2 cán bộ ra Liên khu IV chép chương trình, giáo viên dựa vào
chương trình mà biên soạn và dạy. Trường tiểu học ở Quảng Trị lúc này không
có nhiều, qui mô nhỏ và không hoàn chỉnh. Số lượng học sinh tiểu học chưa đến
1000 em (kể cả các lớp hương học ở các thôn bản) .
Tại hội nghị cán bộ toàn tỉnh tháng 3 năm 1946 họp ở trụ sở tự vệ thị xã
Quảng Trị, đồng chí Trần Tống ủy viên Thường vụ xứ ủy Trung Bộ đã về dự và
đánh giá như sau:
"Những cuộc vận động thực hiện 3 nhiệm vụ trọng tâm là diệt giặc đói, diệt
giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm" bước đầu đã đem lại cho Quảng Trị một sắc thái
mới tốt đẹp. Qua các cuộc vận động lớn đó, Đảng bộ Quảng Trị đã huy động
được lực lượng toàn dân tham gia xây dựng, củng cố chính quyền, tạo nên nền
móng của chế độ mới, phát huy mạnh mẽ vai trò làm chủ của nhân dân, tổ chức
được phong trào quần chúng rộng rãi với khí thế cách mạng sôi nổi chưa từng có"
(
2
)
Năm học đầu tiên có sự kiện lịch sử trọng đại là Tổng tuyển cử của Chính
phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Quảng Trị lúc đó có 28 vạn dân
với gần 15 vạn cử tri đã hăng hái đi bầu cử. Mặt trận Việt Minh đã giới thiệu các
ông Lê Thế Hiếu, Đặng Thí, Trần Mạnh Quỳ.
--------------------------------------------------------------------------------
(1) Tờ báo của Đảng bộ huyện Hải Lăng

tại chỗ để tăng nhanh về số lượng cán bộ bình dân học vụ.
Từ những lớp học bồi dưỡng do Nha Bình dân học vụ tổ chức đã đào tạo
những hạt giống tốt cho phong trào bình dân học vụ của tỉnh Quảng Trị. Để phát
động phong trào, Ty Bình dân học vụ đã tổ chức biên chế các trưởng ban bình
dân học vụ ở các địa phương. Ông Nguyễn Hữu Ích làm trưởng ban bình dân
học vụ ở Triệu Phong; ông Phan Quang Diêu (Phan Quang) trưởng ban bình dân
học vụ ở huyện Hải Lăng; ông Hoàng Đức Thạc làm trưởng ban bình dân học vụ
ở Cam Lộ; ông Nguyễn Thiệu làm trưởng ban ban bình dân học vụ ở Vĩnh Linh...
Lúc bấy giờ ở mỗi xã, mỗi thôn đều có trưởng ban ban bình dân học vụ.
Công việc đầu tiên của các ban bình dân học vụ là tổ chức tuyên truyền. Thời
kỳ đầu cách mạng không có sự tách bạch nhiệm vụ trong tuyên truyền. Người ta
có thể tuyên truyền đường lối Việt Minh, chính sách của Chính phủ ngay trên lớp
bình dân học vụ. Nội dung tuyên truyền tập trung vào chống giặc đói, giặc dốt,
giặc ngoại xâm. Công tác tuyên truyền cho bình dân học vụ được đẩy mạnh thành
cao trào, đi đâu, làm gì cũng xoay quanh việc học bình dân học vụ. Chuẩn mực
biết chữ được đề cao:
Lấy chồng biết chữ là tiên
Lấy chống mù chữ là duyên nợ nần.
Tháng 2/1946 Bộ Giáo dục quốc gia mở Hội nghị cán bộ giáo dục toàn quốc
ở trường Ba Công Thụy Khê (Hà Nội) đoàn cán bộ Giáo dục Quảng Trị do ông
Tôn Thất Dương Thanh, ông Nguyễn Linh (đại diện cho cơ sở) và ông Tôn Thất
Văn ra dự. Tại hội nghị này Bộ Gíáo dục đánh giá cao thành quả đạt được của
phong trào bình dân học vụ, phong trào giáo dục của Quảng Trị.
Đoàn trở về tổ chức hội nghị ở trụ sở tự vệ thị xã Quảng Trị với hơn 50 người
tiêu biểu cho phong trào. Không có phần thưởng chỉ có lời khen nhưng các cán
bộ và giáo viên vô cùng phấn khởi và do đó phong trào được nuôi dưỡng, phát
triển. Số liệu lưu trữ lúc đó là 753 lớp bình dân học vụ, 327 giáo viên và 13.595
học viên. Con số này cũng có nghĩa là gần hết số người trong tuổi cử tri ở
Quảng Trị đã biết chữ. Phong trào bình dân học vụ ở Quảng Trị phát triển cho tới
khi mặt trận vỡ. Trong thành công to lớn đó có sự đóng góp quan trọng của "cán

Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng
cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước" .
Người khẳng định: "Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết
hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta" (
2
).
Đồng chí Nguyễn Chí Thanh ủy viên trung ương Đảng, Bí thư xứ ủy Trung
Bộ. Đồng chí Hoàng Quốc Việt Bí thư liên khu Bốn đã trực tiếp chỉ đạo các hội
nghị cán bộ tỉnh Quảng Trị, vạch ra sách lược cụ thể thực hiện lời kêu gọi của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện trường kỳ kháng chiến thắng lợi. Ủy ban Kháng
chiến tỉnh Quảng Trị gồm các đồng chí Đặng Thí, Nguyễn Xuân Luyện, Nguyễn
Hữu Khiếu Hùng Việt, Trần Sâm, Trương Quang Phiên (phụ trách giáo dục) đã
vạch định các chủ trương ngăn chặn quân Pháp đánh từ Lào qua đường 9 nhằm
giải vây cho Thừa Thiên - Huế (lúc này Ủy ban Kháng chiến hành chính Trung
Bộ của ta đang đóng ở Huế) .
--------------------------------------------------------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh toàn tập NXB chính trị quốc gia Hà Nội 1995 . Trang 486
(
2
) Hồ Chí Minh toàn tập NXB chính trị quốc gia Hà Nội 1995 . Trang 486
Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị cùng với cả nước nhất tề đứng lên kháng
chiến. Cơ quan tỉnh ủy chuyên lên chiến khu Ba Lòng. Ủy ban quân sự địa
phương tăng cường lực lượng cho sư đòan 95 (trước gọi là Thiện Thuật). Quân
và dân ta trong đó có đông đảo học sinh và giáo viên ngày đêm đào hào, phá
đường, đánh sập cầu, đắp chướng ngại vật trên đường cái ngăn chặn bước tiến
của địch, thực hiện "vườn không nhà trống" , "tiêu thổ kháng chiến", thực hiện
đưa dân tản cư lên rừng núi, những miền hiểm trở để bảo toàn lực lượng chuẩn bị
cho cuộc kháng chiến lâu dài. Nhờ có sự chuẩn bị chu đáo, phát động được lòng
yêu nước
của nhân dân, chúng ta đã làm hạn chế đáng kể kế hoạch "đánh nhanh thắng

phòng, thầy Trần Khả giữ chức Trưởng phòng chuyên môn và thầy Nguyễn Hữu
Bành giữ chức Trưởng phòng nhân sự kế tóan. Lương Trưởng Ty được ghi rõ
40,5 kg gạo/tháng; lương Phó trưởng Ty được 39,5 kg gạo/tháng; lương giáo viên
có Bằng Thành Chung là 38,5kg gạo/tháng, có bằng Tiểu học 36 kg güạo/tháng,
không có bằng được 35 kg gạo/tháng. Mỗi tháng được nhận 13,5kg, số gạo còn
lại ghi vào sổ lương chờ khi có điều kiện thanh toán. Mỗi giáo viên được cấp 2
xếp giấy (1 để soạn bài, 1 để làm sổ); Hiệu trưởng được cấp thêm 1 xếp để viết
báo cáo, 2 hộp phấn và 5 ngòi bút lá tre. Hành trang ban đầu của một thầy giáo
kháng chiến đơn giản nhưng với tấm lòng cách mạng yêu nước sâu sắc nhiều
thầy giáo đã quên mình vì sự nghiệp giáo dục.
-----------------------------------------------------------------------------------
(1) Lịch sử Đảng bộ Quảng Trị. Sách đã dẫn
(2) Trình độ ngang lớp 9 ngày nay
Vốn có học vấn và với tấm lòng yêu nước nồng nàn, giáo viên đã hăng hái
đi về các vùng khó khăn trong thế trận cài răng lược, bên địch - bên ta, tổ chức
lớp học, xây dựng trường sở. Vì vậy ở vùng chiến khu, vùng tự do, vùng giáp
ranh, các lớp học được tổ chức trở lại. Sau Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ
II (11/1947) phong trào bình dân học vụ ở Quảng Trị được khôi phục nhanh
chóng và phát triển mạnh mẽ. Các cấp ủy Đảng, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở đã
tập trung sức cho công tác bình dân học vụ, xem đó là một mặt trận quan trọng.
Khẩu hiệu thi đua "Tiền tuyến diệt xâm lăng - Hậu phương diệt giặc dốt" "Đi học
bình dân học vụ là yêu nước, dạy bình dân học vụ là yêu nước, diệt giặc dốt là yêu
nước, chống nạn thất học cũng là chống giặc ngoại xâm..." Khẩu hiệu về bình dân
học vụ, chữ cái, vần, dấu thanh được viết mọi nơi, mọi chỗ, có thể nói tỉnh Quảng
Trị là "tỉnh chữ, huyện chữ, làng chữ và nhà chữ" , ngủ dậy mở mắt ra là thấy
chữ. Mặt trận Việt Minh là người chỉ đạo trực tiếp, cùng với các Hội Phụ nữ,
Thanh niên ra sức tổ chức bình dân học vụ theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Ty Tuyên truyền của tỉnh đã có nhiều hoạt động cho bình dân học vụ. Từ
đầu năm 1948 khi lực lượng của địch tỏ ra không đủ sức kiểm sóat được địa bàn
rộng lớn của ta quân du kích và bộ đội địa phương chặn đánh giặc đi càn quét

văn nghệ thực hiện đời sống mới "ăn đũa hai đầu" vệ sinh thường thức. Cán bộ
bình dân học vụ nhiệt tình, chịu thương chịu khó nhất. Ở huyện Hải Lăng có một
chị giáo viên bình dân học vụ cha bị giặc Pháp bắn chết, chôn cất cha xong là đến
thẳng lớp bình dân học vụ vì biết rằng ở đó mọi người đang chờ chị (
2
). Giáo
viên Nguyễn Quang Trung ở xã Vĩnh Thái, hai chân bị liệt đi bằng tay vẫn kiên
trì đến lớp, một mình xóa nạn mù chữ cho hàng trăm người và đã được đi dự Hội
nghị thi đua toàn quốc, được nhận Huy hiệu Chiến sĩ diệt dốt. Lớp học bình dân
học vụ đã trở thành tổ ấm an ủi, chia xẻ về tình làng nghĩa xóm.
(1) Việt Nam chống nạn thất học. NXB Giáo dục. Trang 90
(2) nt Trang 68
Trong điều kiện thiếu thốn sách vần quốc ngữ, giáo viên bình dân học vụ
phải chép tay, in đất, in thạch, in đá. Năm 1947 Bộ Giáo dục in 2,5 triệu bản sách
học vần nhưng trong điều kiện chiến tranh ác liệt đoàn quân chi viện Khu ủy khu
Bốn chỉ mang vào được cho Quảng Trị 400 bản, vì vậy việc nhân bản bằng chép
tay là chủ yếu.
Biết Ty Bình dân học vụ Quảng Trị quá thiếu thốn về đá in, Ty Bình dân
học vụ Nghệ An tặng 10 viên đá. Để đến được chiến khu Ba Lòng - nơi Ty Bình
dân học vụ Quảng Trị đóng trụ sở. Ty Nghệ An phải cử 5 người gánh, vượt qua
Trường sơn hiểm trở, đi suốt cả tháng ròng mới đến được. (
1
). Nghĩa tình kháng
chiến đó ngành Giáo dục Quảng Trị mãi mãi tạc dạ ghi ân.
Kết thúc năm học 1948 - 1949 Quảng Trị đã tổ chức đượüc trên 2000 lớp
học, huy động gần 2 vạn người. Trong công tác bình dân học vụ phải kể đến một
lực lượng quan trọng nữa là bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực, họ vừa là đối
tượng của bình dân học vụ vừa là cán bộ bình dân học vụ năng nỗ nhất. Vùng núi
Hướng Hóa, vùng núi Do Linh, Vĩnh Linh nhờ lực lượng này mà cơ bản đã thực
hiện có hiệu quả công tác diệt giặc dốt.

hiểm nguy nơi đồn bốt của địch. Đoàn quân bình dân học vụ như những ngọn lửa
thắp sáng từ Hải Bình, Hải Trình, Hải Châu (Hải Lăng) chạy ra Phong Trạch,
Phong Thạnh (Triệu Phong) sang Do Việt, Do Hải, Trung Giang (Do Linh), đến
Vĩnh Tùng, Vĩnh Hoàng (Vĩnh Linh).
Sau thất bại ở chiến trường Việt Bắc thu đông năm 1947 giặc Pháp mở rộng
càn quét, chiến trường Bình - Trị - Thiên trở thành chiến trường ác liệt. Địch
đánh chiến khu Hòa Linh nơi Bộ chỉ huy phân khu của ta, đánh vào Thủy Ba
Thượng (Vĩnh Linh), Cẩm Phổ (Do Linh), Cùa (Cam Lộ), Khe Mương (Hải
Lăng), khu căn cứ của huyện ủy Hải Lăng và đánh chiếm chợ Cạn (Triệu Phong).
Những cuộc càn quét vây ráp của địch đã gây cho đồng bào ta những tổn thương
nặng nề. Điển hình là trong 3 ngày của tháng 3 năm 1949 chúng đã giết hại hơn
1300 người dân vùng Triệu Hải. Chiến tranh tàn khốc, đói kém, bệnh tật là những
cản trở lớn cho việc học tập của bình dân học vụ.
Từ tháng 3 năm 1949, sau Đại hội đại biểu Đảng bộ Quảng Trị lần thứ 3
phong trào bình dân học vụ phát triển trở lại. Ông Lê Đình Hiên trưởng Ty Bình
dân học vụ tỉnh được điều động ra Bộ Giáo dục, ông Nguyễn Linh giữ chức
Trưởng ty Bình dân học vụ, tiến hành tổ chức tập huấn củng cố lực lượng cán bộ
bình dân học vụ thực hiện những cải cách của hệ thống giáo dục bình dân học vụ
với những qui định theo quỹ thời gian:
- Sơ cấp bình dân: thời gian 4 tháng cho người chưa biết chữ
- Dự bị bình dân: thời gian 4 tháng dạy đến trình độ lớp ba cũ
- Bổ túc bình dân: thời gian 8 tháng dạy đến trình độ lớp 5.
- Trung cấp bình dân: thời gian 8 tháng dạy đến trình độ lớp 8 phổ thông.
Bình dân học vụ đi vào ổn định và có điều kiện nâng cao chất lượng theo
chuẩn mực của Nha Bình dân học vụ.
Năm 1951, giáo dục phát triển mạnh, đội ngũ cán bộ, thầy giáo các cấp
thiếu trầm trọng. Năng lực sư phạm mà trước hết lý luận về một nền giáo dục
cách mạng của cán bộ còn non nớt, nên cần phải gấp rút được đào tạo theo một
hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trung ương Đảng, Chính phủ
thành lập khu học xá trung ương đặt ở Nam Ninh, Quế Lâm của nước Cộng hòa

Lộc, Cam Mĩ, Cam Thủy, Cam Thanh (Cam Lộ); Hải Trung, Hải Phong, Long
Hưng, Diên Sanh, Mỹ Chánh (Hải Lăng)..., những trường này có Hiệu trưởng, có
Đốc học kiểm sóat, sau này gọi là kiểm soát viên tiểu học vụ. Hệ thống thứ ba là
trường vùng địch tạm chiếm và vùng địch chiếm - Ba hệ thống này khá độc lập
trong hoạt động, tuy nhiên có sự bổ sung rất quan trọng khi chiến sự thay đổi.
Vùng giải phóng phát triển, vùng địch chiếm thu hẹp con em có trình độ từ các
loại hình đó bổ sung cho nhau, tạo ra mặt bằng học vấn trong thế hệ trẻ của
Quảng Trị.
Trong điều kiện kháng chiến gay go và ác liệt, giáo dục Quảng Trị vẫn giữ
vững và tiếp tục phát triển hệ thống trường Tiểu học, phát triển trường cấp II: Hệ
thống trường tiểu học của Quảng Trị từ năm học 1948-1949 phát triển mạnh.
Tính cả 5 trường vùng địch chiếm, Quảng Trị có 23 trường (5 trường toàn cấp),
nằm chung trong khu giáo dục khu Bốn, số lượng học sinh tăng 7 lần so với ngày
đầu cách mạng. Điểm nổi bật là dù ở xa Trung ương nhưng những chuyển đổi về
nền giáo dục cách mạng vẫn được thực thi thông suốt. Năm học 1948-1949 có
trên 120 học sinh toàn tỉnh thi tốt nghiệp Tiểu học, đạt tỷ lệ tốt nghiệp 72%. Môn
Giáo dục chính trị đạo đức được đưa vào nhà trường. Học sinh Tiểu học được
đưa vào hoạt động đoàn thể nhi đồng cứu quốc. Trường học phát động "Kế
hoạch nhỏ", công tác Trần Quốc Toản, vệ sinh đường làng, ngõ xóm, đốt đuốc
cổ động được các em nhỏ hưởng ứng sôi nổi. Điển hình có em học sinh Trần Đức
Đá học trường Tiểu học Vạn Côn Vĩnh Hồ (Vĩnh Linh) học giỏi, chăm làm, được
Mặt trận Việt Minh tín nhiệm giao nhiệm vụ làm liên lạc cho bộ đội địa phương,
lập được nhiều thành tích xuất sắc, được Chính phủ tặng Huân chương Chiến
công hạng Ba tại Đại hội chiến sĩ thi đua Dân quân Du kích Quân khu Bốn tổ
chức ở Thanh Chương (Nghệ An) năm 1952. Gương sáng này đã được viết thành
bài thơ in ở cuốn sách giáo khoa lớp 2 năm 1952 trong đó có đoạn:
Em Trần Đức Đá
Tuổi còn nhỏ
Mồ côi cả mẹ , cha
Một mình em tăng gia

quốc lần thứ II ngày 11/2/1952 tại xã Vinh Quang, Tuyên Quang, Đảng ta quyết
định ra công khai hoạt động, đổi tên Đảng cộng sản Đông Dương thành Đảng lao
động Việt Nam "Phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã
hội" (
1
). Đây là cơ hội cho giáo dục cả nước và Giáo dục Quảng Trị có nhiều
thuận lợi nhất để phát triển. Năm 1952 là năm triển khai hệ thống giáo dục mới ở
Quảng Trị, các lớp học trước khi vào lớp 1 đều được gọi là lớp vỡ lòng. Ty Tiểu
học vụ đã cử người ra Liên khu Bốn nhận chương trình và dự lớp tập huấn, bồi
dưỡng đào tạo cán bộ, giáo viên dạy vỡ lòng. Bồi dưỡng giáo viên dạy vỡ lòng có
quỹ thời gian ngắn, cho nên chỉ trong vòng 6 tháng đội ngũ giáo viên vỡ lòng
được hình thành tới tận làng xã. Các lớp vỡ lòng được mở rộng. Đội ngũ giáo
viên vỡ lòng nhiệt tình, tận tụy và giỏi nghề nghiệp nhưng cũng rất nghiêm khắc
với học trò trong việc rèn chữ viết, thế hệ học sinh mà sau này nhiều người trở
thành thầy giáo có kiểu chữ viết rất đẹp. Hệ thống lớp vỡ lòng là bước quá độ để
đi đến sự cần thiết xây dựng ngành học mẫu giáo, là cách tốt nhất có tính bổ sung
chất lượng cho cấp I.
----------------------------------------------------------------------------------------
(
1
) Chính cương Đảng LĐVN. Văn kiện toàn quốc Đại hội Đảng lần II. NXB Hà
Nội, Trang 135
Đầu tháng 12 năm 1949 đoàn cán bộ chi viện của Liên khu ủy Khu Bốn do
đồng chí Võ Thuần Nho lúc đó là Chánh văn phòng Khu ủy Liên khu Bốn dẫn 34
giáo viên cấp I, cấp II (phần lớn là người Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An và
Thanh Hóa) vào bổ sung cho giáo dục Quảng Trị.
Đòan giáo viên chi viện cho giáo dục Quảng Trị được chia nhỏ theo nhóm có
dân quân tự vệ ở 3 tĩnh: Hà Tĩnh, Quảng Bình và Quảng Trị dẫn đường. Từ Đức
Thọ đoàn đi ngược hướng Tân Ấp qua đường Goòng vượt đèo Ngang. Tại đây
lực lượng dân quân Quảng Bình ra đón về Minh Cầm. Đoàn đi qua Vạn Tượng ,


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status