Trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh (Luận văn thạc sĩ) - Pdf 51

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG VĂN HOÀNG

TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG VĂN HOÀNG

TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐINH XUÂN NAM


HÀNH TỐ TỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................38
2.1. Diễn biến tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2017 trả hồ sơ để điều tra
bổ sung. .................................................................................................................38
2.2. Tình hình trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với tội phạm xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm
2017 ......................................................................................................................40
2.3. Nguyên nhân dẫn đến trả hồ sơ để điều tra bổ sung ......................................51
Tiểu kết Chương 2 ...................................................................................................56
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ, NHẰM HẠN CHẾ VIỆC
TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ
HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT ...............................................................57
3.1. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo của các cơ
quan tiến hành Tố tụng trong việc trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ...................................................................57
3.2. Nâng cao nhận thức đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán trong


việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung .........................................................................59
3.3. Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán .......................................................................................................................61
3.4. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra và
Viện kiểm sát với Tòa án ......................................................................................64
3.5. Tăng cường công tác tổng kết rút kinh nghiệm trong tố tụng .....................65
3.6.Tăng cường công tác ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự. ..................................................................................66
Tiểu kết Chương 3 ...................................................................................................69
KẾT LUẬN ..............................................................................................................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

XPSH:

Xâm phạm sở hữu


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Bảng thống kê số liệu các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt từ năm 2013 đến năm 2017 trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. ...................38
Hình 2.2. Biểu đồ phân tích các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt từ
năm 2013 đến năm 2017 ...........................................................................................39
Bảng 2.3. Bảng thống kê các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Viện
kiểm sát trả hồ sơ cho cơ quan điều tra để điều tra bổ sung từ năm 2013 đến năm
2017 ...........................................................................................................................40
Bảng 2.4. Bảng thống kê các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Tòa
án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung từ năm 2013 đến năm 2017 ......44


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, để đảm bảo cho công tác
điều tra, truy tố và xét xử đúng người đúng tội đúng pháp luật, không bỏ lột tội
phạm và người phạm tội. Bộ luật TTHS năm 2015 tại các điều 245, 246, 280 đã

nhận thức và thể hiện đúng chức năng nhiệm vụ theo quy định của pháp luật do đó
trong số các vụ án đã khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử, số lượng vụ án trả hồ sơ
điều tra bổ sung đều nằm trong trong tỷ lệ quy định của mỗi cơ quan tiến hành tố
tụng (từ 3,3 đến 0,4%). Tuy nhiên do tình hình tội phạm đều diễn biến phức tạp,
một số vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt việc phát hiện vì thiếu chứng cứ chứng
minh tội phạm và người phạm tội dẫn đến bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, làm oan
người vô tội. Mặc khác trong một số bị can phạm tội là người nước ngoài , đối
tượng người các tỉnh, sống lang thang không có nơi cư trú; quy mô tính chất tội
phạm ngày càng tinh vi xảo nguyệt, một số vụ án phạm tội có tổ chức, nhiều đối
tượng tham gia nên việc phát hiện thu thập chứng cứ gặp rất nhiều khó khăn...do đó
vẫn còn tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung, thậm chí trong số đó có vụ phải đình
chỉ điều tra, đình chỉ vụ án làm giảm uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật gây ra
bức xúc trong quần chúng nhân dân.
Từ ý nghĩa đó việc lựa chọn vấn đề “ Trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với các
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn là đáp ứng yêu cầu
tất yếu khách quan hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua nghiên cứu các công trình khoa học đã công bố, cho thấy có một số
công trình đề cập về trả điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng như sau:
Một số công trình nghiên cứu về vấn đề trả điều tra bổ sung ở Việt Nam cho
đến nay: Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2008; Tạp chí kiểm sát, số 6/2008, “Chuyên
đề về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hình
sự”;Vụ 1A Viện kiểm sát nhân dân tối cao 2008, “Chuyên đề trả hồ sơ để điều tra
bổ sung”; Tác giả Nguyễn Ngọc Kiện, “Một số vấn đề về việc Tòa án trả lại hồ sơ
để điều tra bổ sung”, Tác giả Nguyễn Hải Ninh, “Sửa đổi, bổ sung quy định của

2



3


cần được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hơn. Mặt khác, thực tiễn
hoạt động Trả hồ sơ để điều tra bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố
Hồ Chí Minh chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, một phần là do các quy định của
pháp luật TTHS liên quan đến vấn đề này còn nhiều bất cập, chưa phù hợp trong
tình hình hiện nay, cần phải tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ
sung theo pháp luật TTHS Việt Nam đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, luận văn góp phần làm sáng tỏ
những bất cập và những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật TTHS. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm hạn chế trả
hồ sơ điều tra bổ sung đối với các loại tội phạm này.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về trả hồ
sơ điều tra bổ sung.
Nghiên cứu tình hình tội XPSH có tính chất chiếm đoạt thực tiễn tại TP. HCM
Đánh giá thực tế trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với các tội XPSH có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Những kết quả đạt được và những
tồn tại hạn chế đồng thời làm rõ nguyên nhân của những tồn tại hạn chế, khó khăn
vướng mắc dẫn đến trả hồ sơ điều tra bổ sung
Đề giải pháp khắc phục tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung các tội XPSH có
tính chất chiếm đoạt
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về trả hồ sơ điều tra

+ Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp số liệu
+ Phương pháp khảo sát
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn được nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của Pháp luật
tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng và phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật hình sự trong
việc giải quyết các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt phải trả hồ sơ điều tra bổ
sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn thành phố TP HCM từ năm
2013 – 2017. Từ kết quả nghiên cứu luận văn, tác giả đưa ra những giải pháp cụ thể
5


là kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình
sự và các giải pháp nhằm hạn chế tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung của các
Cơ quan tiến hành tố tụng ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ
sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về trả hồ sơ để
điều tra bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Một số giải pháp kiến nghị, nhằm hạn chế việc trả hồ sơ để điều
tra bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.

6





BLHS.
Về tê tội danh thì BLHS năm 2015 ( Sửa đổi, bổ sung năm 2017) có sửa tên
tội danh của Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của nhà
nước (Điều 144 BLHS năm 1999) thành tội thiếu trách nhiệm gây thiết hại đến tài
sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp (Điều 179 BLHS) [8, tr. 182].
Căn cứ vào tính chất mục đích phạm tội khoa học luật hình sự chia các tội
XPSH thành hai nhóm tội.
Nhóm 1: là nhóm các tội phạm có mục đích tư lợi bao gồm 10 tội được quy
định từ Điều 133 đến Điều 142 BLHS. Và nhóm 2: là nhóm tội phạm không có mục
đích tư lợi được quy định từ Điều 143 đến Điều 145 BLHS. Đối với nhóm các tội có
mục đích tư lợi, dựa vào đặc điểm chung của hành vi phạm tội có thể chia thành
nhóm có tính chất chiếm đoạt (bao gồm 8 tội từ Điều 133 đến Điều 140 và nhóm
không có tính chất chiếm đoạt (gồm các Điều 141, 142). Vậy tính chất chiếm đoạt ở
đây được hiểu như thế nào?
Trong khi đó, theo Từ điển tiếng Việt, chiếm đoạt là “Chiếm của người làm
của mình, bằng cách dựa vào vũ lực, quyền thế”[36, tr. 212]. Như vậy, khái niệm
chiếm đoạt cần phải bao quát cả ở khía cạnh hành vi phạm tội và mục đích phạm
tội. Từ đó, chúng tôi cho rằng khái niệm chiếm đoạt trong dấu hiệu chiếm đoạt cần
được hiểu như sau: “Chiếm đoạt là việc cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang
thuộc sự quản lí của chủ sở hữu thành tài sản của mình. Chúng được biểu hiện dưới
dạng hành vi hoặc mục đích phạm tội”.
Trên cơ sở khái niệm các tội XPSH và khái niệm chiếm đoạt ở trên, có thể
đưa ra khái niệm về các tội XPSH có tính chiếm đoạt như sau:
Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là những hành vi cố ý
chiếm lấy, đoạt lấy tài sản đang do người khác sở hữu hợp pháp làm tài sản của
mình vì mục đích vụ lợi.
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý đặc trưng
Dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt (dựa

tài sản (nhóm 2); hành vi dùng thủ đoạn gian dối như tội Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (nhóm 3) hay hành vi nhanh chóng
chiếm đoạt tài sản một cách công khai rồi tẩu thoát như tội Cướp giật tài sản. Đối
tượng thực hiện hành vi và điều kiện khi thực hiện hành vi là khác nhau. Cụ thể,

9


trong nhóm 1, đối với tội Cướp tài sản, người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe dọa
dùng vũ lực “Ngay tức khắc” đối với chủ tài sản; đối với tội Bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản thì hành vi đe dọa dùng vũ lực lại nhằm vào con tin từ đó khiến người
thân của con tin (người có tài sản) phải lo sợ, giao nộp tài sản; hoặc cùng là đe dọa
dùng vũ lực đối với chủ tài sản nhưng ở tội Cưỡng đoạt tài sản không có đặc điểm
“Ngay tức khắc” như tội Cướp tài sản. Đối với nhóm 2, người phạm tội Trộm cắp
tài sản có thủ đoạn lén lút khi thực hiện hành vi chiếm đoạt; còn ở tội Công nhiên
chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội lại có hành vi công khai. Ở nhóm 3,tội Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản và tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được phân biệt
với nhau bởi thủ đoạn gian dối được thực hiện trước hay sau khi hành vi chiếm đoạt
được thực hiện.
Qua những hành vi nói trên gây ra hậu quả là những thiệt hại cho quan hệ sở
hữu được thể hiện dưới dạng thiệt hại vật chất cụ thể là tài sản bị mất. Đối với
những tội như Cướp tài sản, Cướp giật tài sản, Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì
thiệt hại còn bao gồm cả thiệt hại về thể chất (thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe,
tinh thần).
Thứ ba, chủ thể của tội phạm
Chủ thể của nhóm tội này có thể là bất kỳ người nào có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định: từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm
hình sự về mọi tội phạm, từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu
trách nhiệm hình sự về những tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc những tội đặc biệt
nghiêm trọng quy định tại Điều 133; khoản 2,3, và 4 của các Điều 134, 135, 136;

1.2. Những vấn đề lý luận về trả hồ sơ điều tra bổ sung
1.2.1. Khái niệm trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là việc TA chuyển trả hồ sơ cho VKS hoặc
VKS chuyển trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung. Vậy việc trả hồ sơ điều tra bổ
sung có thể được hiểu là quá trình khắc phục những vi phạm về thủ tục nếu có, làm
rõ, bổ sung thêm những chứng cứ còn yếu, còn thiếu, chưa toàn diện.
1.2.2. Chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung trong Bộ luật tố tụng hình sự
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là chế định pháp lý được quy định tại các
Điều 168, 179 BLTTHS năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009, cho phép
CQĐT, VKS, TA thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và giải quyết vụ

11


án hình sự.
Đây là quyền hạn của CQĐT, VKS, TA được thực hiện khi có căn cứ pháp
luật nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự khách quan,
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội
phạm.
Điều 168 Bộ luật TTHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 được quy định
rất cụ thể về việc VKS ra quyết định trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung khi
phát hiện thấy hồ sơ vụ án còn thiếu những bằng chứng, chứng cứ quan trọng đối
với vụ án mà VKS không thể tự mình bổ sung chứng cứ được. Nên khi có căn cứ
để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có đồng phạm khác hay có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng, thì VKS ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
trong thời hạn truy tố quy định tại khoản 1 Điều 166 của BLTTHS năm 1999 sửa
đổi bổ sung năm 2009.
Thẩm phán được phân công nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự sơ thẩm ra quyết
định trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung trong giai đoạn trước ngày mở phiên
tòa sơ thẩm trong thời hạn cụ thể được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 176 của

sơ để điều tra bổ sung rất cụ thể.
Hiện nay BLTTHS 2015 có hiệu lực thì có nhiều điểm mới nổi bậc giúp cho
các cơ quan tiến hành tố tụng dễ áp dụng và phân hóa điều luật rõ ràng hơn so với
BLTTHS 2003. BLTTHS 2015 gồm có 4 căn cứ so với BLTTHS 2003 chỉ có 3 căn
cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung.
BLTTHS 2015 được quy định rất cụ thể tại các điều 245, 246, 280 và Điều
240, khoản 2 Điều 298 trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung hiện nay.
VKS trả hồ sơ cho CQĐT dựa vào 4 căn cứ tại khoản 1 điều 245. Điểm mới
được bổ sung vào BLTTHS 2015 đó là quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của
VKS trả hồ sơ cho CQĐT được cụ thể hóa bằng khoản 2 Điều 245 vào BLTTHS
2015. Và trách nhiệm của CQĐT được quy định rõ tại khoản 3 Điều 245 BLTTHS
2015.
TA trả hồ sơ cho VKS dựa vào 4 căn cứ tại khoản 1 Điều 280 BLTTHS
2015. Khoản 2 Điều 280 VKS yêu cầu TA trả hồ sơ điều tra bổ sung nếu phát hiện
có căn cứ. Đối với Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của TA cho VKS được
quy định tại khoản 3 Điều 280 BLTTHS 2015 đây cũng là điểm mới. Vấn đề giải

13


quyết yêu cầu điều tra bổ sung của TA được thể hiện rất rõ tại Điều 246 BLTTHS
2015.
Ngoài ra Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCABQP của VKSND tối cao - TAND – Bộ công an – Bộ quốc phòng ngày 22 tháng 12
năm 2017 đi kèm hướng dẫn sẽ giúp các cơ quan tiến hành tố tụng làm giảm đáng
kể việc trả hồ sơ điều tra bổ sung trong thời gian tới.
1.3. Quy định của pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung
1.3.1. Căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung
1.3.1.1. Căn cứ thứ nhất là căn cứ chứng cứ trong hồ sơ vụ án
Theo giáo trình của trường Đại học Luật Hà Nội thì: “ Chứng cứ là những gì
có thật có liên quan đến vụ án hình sự, được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát , Tòa

do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn
cứ để giải quyết vụ án hình sự.” [23, tr. 87]
Như vậy các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt cần phải chứng minh một
số vấn đề cần chứng minh phải đúng căn cứ theo pháp lý, những vấn đề cần chứng
minh việc thiếu sót một hay một số chứng cứ quan trọng sẽ không đảm bảo giải
quyết vụ án hình sự một cách toàn diện, khách quan.
- Căn cứ pháp lý: Thì chứng cứ được quy định rất cụ thể tại Điều 64

BLTTHS 2003, và Điều 86 BLTTHS 2015 quy định thì chứng cứ là những gì có
thật, được thu thập theo trình tự thủ tục do BLTTHS quy định mà CQĐT, VKS và
TA dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện
hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng
đắn vụ án.
Như vậy, chứng cứ là những gì có thật, tức là phải tồn tại trong thực tế khách
quan, độc lập với ý thức chủ quan của những người tiến hành tố tụng. Nếu người
tiên hành tố tụng nhận thức không đúng, chủ quan, suy diễn về những vấn đề phải
chứng minh trong vụ án hình sự cũng như những tình tiết khác cho việc giải quyết
đúng đắnvụ án, thì những tào liệu mà họ thu thập được không được công nhận là
chứng cứ vì chúng không mang tính khác quan.
Ngoài tính khác quan, chứng cứ cón phải mang tính kiên quan, tức là quá
trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể thu thập được
nhiều tài liệu khác nhau, nhưng chỉ tài liệu nào có liên quan, có khả năng làm rõ vấn

15


đề phải chứng minh trong vụ án hình sự cũng như tình tiết khác có ý nghĩa giải
quyết đúng đắn vụ án mới có thể được công nhận là chứng cứ
Để công nhận là chứng cứ, ngoài việc phải thỏa mãn tính khách quan và tính
có liên quan, chứng cứ còn thỏa mãn tính hợp pháp, nghĩa là chứng cứ phải được

trình điều tra phải làm rõ hành vi phạm tội xảy ra khi mào, ở đâu. Thực tiễn điều tra
vụ án hình sự cho thấy, nếu còn xác định chính xác thời gian và địa điểm xảy ra vụ
án bao nhiêu, thì càng có điều kiện thuận lợi để chứng minh các tình tiết khác của
hành vi phạm tội. Nhiều trường hợp do không xác định được thời gian xảy ra vụ án
nên đã mất phương hướng điều tra, người phạm tội có điều kiện bỏ trốn. Chẳng hạn,
trong vụ giết người, cướp tài sản do không xác định kịp thời gian và chính xác thời
gian xảy ra vụ án nên người phạm tội đã bỏ trốn, gây khó khăn cho công tác điều
tra.
+ Đối tượng bị xâm hại trong các vụ án đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt là tài sản gồm: đồ vật, tiền bạc, hoặc các loại giấy tờ có giá
trị…Những tình tiết phải chứng minh là dấu hiệu của đồ vật bị chiếm đoạt, về tính
năng, nơi sản xuất, số lượng, giá trị… phải được ghi nhận trong các tài liệu hồ sơ vụ
án hoặc thu giữ, bảo quản theo quy định về vật chứng.
+ Thủ đoạn phạm tội: Trong các vụ án đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt Cần làm rõ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội, từ giai đoạn chuẩn bị phạm tội, phương thức phạm tội, thủ đoạn che giấu tội
phạm. Trong đó mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được xác định trên cơ sở
nghiên cứu tính chất của hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra khi thực hiện hành vi
đó. Làm rõ thủ đoạn phạm tội còn là cơ sở để phân biệt giữa các loại tội phạm trong
nhóm tội xâm phạm sở hữu. (vd: cướp tài sản với công nhiên chiếm đoạt tài sản)
+ Công cụ, phương tiện, vũ khí, tài liệu… người phạm tội sử dụng để thực
hiện hành vi phạm tội: Phải chứng minh làm rõ người phạm tội sử dụng hung khí,
vũ khí, công cụ, phương tiện gì để phạm tội, có phải thuộc loại nguy hiểm không,
nguồn gốc của nó. Đây là những tài liệu , chứng cứ, vật chứng rất quan trọng để
chứng minh sự khách quan của vụ án. Làm rõ được vấn đề này cón là cơ sở trong
việc định khung, lượng hình khi điều tra, truy tố, xét xử đối với các bị can sau này.
Mặt khác, qua đó có thể sơ bộ nhận định về người phạm tội thuộc dạng đối tượng
nào. Các yêu cầu này có thể được xác định thông qua khám nghiệm hiện trường ,
khám xet, hỏi cung, lấy lời khai, trưng cầu giám định. Ví dụ: Việc làm rõ người


tuy nhân thân người phạm tội không phải là yếu tố cấu thành tội phạm. các cơ quan
tiến hành tố tụng muốn giải quyết đúng đắn bất kỳ vụ án hình sự nào nói chung,

18



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status