MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM CON NGƯỜI - Pdf 76

1
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM CON NGƯỜI
Những kiến nghị, giải pháp mà tác giả đưa ra dưới đây được dựa trên cơ
sở nghiên cứu những sự thay đổi điều kiện kinh tế của đất nước đó là khi Việt
Nam gia nhập WTO, cùng với việc chỉ ra các điểm bất hợp lý trong các quy định
của luật kinh doanh bảo hiểm.
1. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đối với hợp đồng bảo hiểm
con người
Việt Nam cũng như tất cả các nước khác khi gia nhập WTO đã tạo ra
những thời cơ và thách thức mới, đòi hỏi mỗi nước phải biết tận dụng chúng để
tạo ra những bước phát triển phù hợp với xu thế chung của thế giới. Bảo hiểm là
một trong những ngành chịu tác động mạnh cả quy mô và chất lượng do việc gia
nhập WTO mang lại và bảo hiểm sẽ là ngành hạn chế đầu tư nước ngoài. Vụ
trưởng vụ pháp chế bộ kế hoạch đầu tư Phạm Mạnh Dũng “bảo hiểm cũng các
ngành viễn thông, tài chính, hàng hải, …sẽ là những lĩnh vực hạn chế đầu tư
nước ngơài” . Nguyên nhân là do bảo hiểm ảnh hưởng lớn đến cuộc sống con
người và sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và nước
ngoài sẽ tạo ra nguy cơ gây mất ổn định thị trường tài chính. Chúng ta sẽ xem
xét những tác động đối với ngành bảo hiểm khi Việt Nam gia nhập WTO.
1.1. Thuận lợi
Khi mở cửa hội nhập các doanh nghiệp bảo hiểm của các nước đến đầu tư
vào Việt Nam làm cho chất lượng dịch vụ của bảo hiểm con người được nâng
cao. Chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ là giảm chi phí,
tăng chất lượng dịch vụ để cạnh tranh thu hút khách hàng. Có thể nói nó mang
tính quyết định đến sự tồn vong của doanh nghiệp bảo hiểm trong nước. Sự cạnh
tranh này tất yếu sẽ kéo theo việc khách hàng được hưởng nhiều ưu đãi hơn.
Hiện nay Việt Nam có các công ty bảo hiểm nhân thọ lớn như Prudential của
Anh, Chinfon Manulife của Đài Loan, Bảo Việt nhân thọ. Các công ty đều đưa
1
1

động của các doanh nghiệp, đảm bảo quyền lợi của các bên chủ thể. Nhưng thực
2
2
2
3
tế sự cạnh tranh này vẫn có thể gây ra sự mất an toàn cho thị trường tài chính.
Các công ty trong nước sẽ bị chia sẻ thị phần và cạnh tranh ngày càng khốc liệt
hơn (thị phần bảo hiểm nhân thọ của các doanh nghiệp trong nước giảm từ 70%
năm 2000 xuống còn 38% năm 2005). Mức độ cạnh tranh cao có thể dẫn tới
hiện tượng liên kết giữa các công ty bảo hiểm lớn, thôn tính các doanh nghiệp
nhỏ, ảnh hưởng tới sự cạnh tranh lành mạnh của thị trường. Và thực tế là khi các
doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tham gia thị trường bảo hiểm sẽ tìm cách lôi
kéo các nhân lực có kiến thức và có kinh nghiệm của các DNBH trong nước.
Hơn nữa trình độ quản lí của các DNBH trong nước chưa theo kịp với
mức độ mở cửa của thị trường này. Đối với DNBH Việt Nam hiện nay để tiếp
cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật của nước ngoài thì cần phải có một thời gian
nữa. Thời gian tới sẽ là thời gian khẳng định sự tiếp nhận, thử nghiệm và phát
triển công nghệ quản lí mới đối với các DNBH trong nước.
Như trên chúng ta đã biết sự đa dạng của các loại hình bảo hiểm một mặt
tạo điều kiện thuận lợi cho người dân lựa chọn loại hình bảo hiểm với dịch vụ
tốt nhất nhưng mặt khác cũng tạo nên sự khó khăn khi lựa chọn loại hình nào
phù hợp với mình. Muốn thu hút khách hàng, phương châm của các doanh
nghiệp luôn thể hiện sự phục vụ khách hàng tốt nhất để phát triển. Vậy làm sao
người dân có thể lựa chọn một cách dễ dàng để đạt được mục đích của minh?
Trong khi đó trình độ hiểu biết về các điều khoản HĐBH nói chung và HĐBH
con người nói riêng của người dân còn hạn chế. Thêm vào đó khi tìm hiểu hợp
đồng các nhân viên tư vấn thường đưa ra những quyền lợi “hấp dẫn” đối với
khách hàng nhằm thu hút khách hàng lựa chọn doanh nghiệp mình. Đó là những
thực tế khó khăn mà người mua bảo hiểm gặp phải trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế ngày nay.

b) Vợ, chồng, con, cha, mẹ của bên mua bảo hiểm;
c) Anh, chị, em ruột; người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng
d) Người khác nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Những đối tượng này có quan hệ hôn nhân hoặc huyết thống với nhau.
Luật đã giới hạn bằng từ “chỉ” có nghĩa là ngoài những đối tượng này ra bên
mua bảo hiểm không thể mua bảo hiểm cho ai khác. Nhưng khi chúng ta tìm
4
4
4
5
hiểu khái niệm “nuôi dưỡng” và “cấp dưỡng” theo Luật Hôn nhân và gia đình
thì hai khái niệm này được quy định ở những trường hợp trái ngược nhau thậm
chí sự tồn tại của khái niệm này sẽ loại trừ khái niệm kia.
Theo khoản 11 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình thì “cấp dưỡng là việc
một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết
yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống
hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, là người
đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình, là người khó khăn túng thiếu theo quy định của luật này”. Đó là cấp
dưỡng, còn nuôi dưỡng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình sẽ được
hiểu là giữa những người sống chung với nhau. Luật này đã liệt kê quan hệ nuôi
dưỡng giữa những người trong gia đình với nhau: đó là quan hệ nuôi dưỡng giữa
cha mẹ và con (Điều 34 và Điều 35); quan hệ nuôi dưỡng giữa ông bà nội, ông
bà ngoại và cháu (Điều 47); quan hệ nuôi dưỡng giữa anh chị em trong gia đình
(Điều 48). Hơn nữa theo khoản 2 Điều 50 quy định: “trong trường hợp người có
nghĩa vụ nuôi dưỡng mà trốn tránh nghĩa vụ đó thì buộc phải thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng theo quy định tại luật này”
Từ những khái niệm trên thì hoàn cảnh phát sinh quan hệ nuôi dưỡng và
cấp dưỡng trái ngược nhau vì việc cấp dưỡng chỉ thực hiện đối với những người
không sống chung với nhau, còn nuôi dưỡng khi họ sống chung với nhau. Hơn

không có quy định cấm mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ sử dụng lao
động
2.2. Về hành vi thông báo sai tuổi của bên mua bảo hiểm đối với người được
bảo hiểm
Theo khoản 2 Điều 34 Luật KDBH: “trong trường hợp bên mua bảo hiểm
thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm nhưng tuổi đúng của người được
bảo hiểm không thuộc nhóm tuổi có thể được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo
hiểm có quyền hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm và hoàn trả số phí bảo hiểm đã đóng
cho bên mua bảo hiểm sau khi đã trừ đi các chi phí hợp lý liên quan. Trong
trường hợp hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực từ hai năm trở lên thì doanh nghiệp
bảo hiểm phải trả cho bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo
hiểm”.
6
6
6


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status