Tài liệu Tìm hiểu về quỹ chứng khoán - Pdf 86

A.Tìm hiểu về quỹ chứng khoán
1.Khái niệm
Quỹ đầu tư là một định chế tài chính trung gian phi ngân hàng thu hút tiền nhàn rỗi từ các nguồn khác
nhau để đầu tư vào các cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ, hay các loại tài sản khác.
Tất cả các khoản đầu tư này đều được quản lý chuyên nghiệp, chặt chẽ bởi công ty quản lý quỹ, ngân
hàng giám sát và cơ quan thẩm quyền khác.
2.Quá trình phát triển
QĐT có nguồn gốc từ châu Âu, khởi thủy ở Hà Lan từ khoảng giữa thế kỷ 19, đến nửa cuối thế
kỷ 19 thì được du nhập sang Anh. Mặc dù có gốc từ châu Âu, nhưng Mỹ mới là nơi các QĐT phát
triển mạnh nhất. QĐT chính thức đầu tiên xuất hiện ở Mỹ vào năm 1924, có tên là Massachusetts
Investor Trust, với quy mô ban đầu là 50.000 USD. Sau một năm, quy mô của quỹ này đã tăng lên
392.000 USD với sự tham gia của trên 200 NĐT.
Trong thời kỳ từ 1929 đến 1951, suy thoái kinh tế và những vụ sụp đổ của TTCK thế giới đã kìm
hãm tốc độ tăng trưởng của ngành quản lý quỹ. Tuy nhiên, sự phục hồi của TTCK trong những
năm 1950 đến 1960 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các QĐT. Một hiện tượng mang tính
tiêu biểu trong giai đoạn này là sự bùng nổ các QĐT chuyên đầu tư vào cổ phiếu có tốc độ tăng
trưởng cũng như mức độ rủi ro cao (aggressive stock funds).
Từ những năm 1980 trở lại đây, thị trường quản lý quỹ đã liên tục phát triển và mở rộng,
đến nay đã trở thành một ngành dịch vụ thịnh vượng, một bộ phận cấu thành quan trọng
của TTCK. Quá trình phát triển TTCK các nước đã thúc đẩy việc hình thành các QĐT góp
phần gia tăng việc luân chuyển vốn vào các thị trường này. Hiện nay, hình thức các QĐT
được phân loại đa dạng và sự xuất hiện loại hình QĐT ở mỗi thị trường còn phụ thuộc vào
sự phát triển và đặc điểm của TTCK các nước.
3.Các loại hình quỹ đầu tư
Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều loại hình quỹ đầu tư căn cứ theo các tiêu chí phân loại khác nhau.
1. Căn cứ vào nguồn vốn huy động:
+ Quỹ đầu tư tập thể (quỹ công chúng)
Là quỹ huy động vốn bằng cách phát hành rộng rãi ra công chúng. Nhà đầu tư có thể là cá nhân hay
pháp nhân nhưng đa phần là các nhà đầu tư riêng lẻ. Quỹ công chúng cung cấp cho các nhà đầu tư
nhỏ phương tiện đầu tư đảm bảo đa dạng hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro và chi phí đầu tư thấp với hiệu
quả cao do tính chuyên nghiệp của đầu tư mang lại.

Mô hình này chưa xuất hiện ở Việt Nam bởi theo quy định của UBCKNN, quỹ đầu tư không có tư cách
pháp nhân.
+ Quỹ đầu tư dạng hợp đồng
Đây là mô hình quỹ tín thác đầu tư. Khác với mô hình quỹ đầu tư dạng công ty, mô hình này quỹ đầu
tư không phải là pháp nhân. Công ty quản lý quỹ đứng ra thành lập quỹ, tiến hành việc huy động vốn,
thực hiện việc đầu tư theo những mục tiêu đã đề ra trong điều lệ quỹ. Bên cạnh đó, ngân hàng giám
sát có vai trò bảo quản vốn và các tài sản của quỹ, quan hệ giữa công ty quản lý quỹ và ngân hàng
giám sát được thể hiện bằng hợp đồng giám sát trong đó quy định quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên
trong việc thực hiện và giám sát việc đầu tư để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Nhà đầu tư là
những người góp vốn vào quỹ (nhưng không phải là cổ đông như mô hình quỹ đầu tư dạng công ty) và
ủy thác việc đầu tư cho công ty quản lý quỹ để bảo đảm khả năng sinh lợi cao nhất từ khoản vốn đóng
góp của họ.
4.Vai trò cần thiết của QĐT

Tại sao nhà đầu tư sử dụng quỹ đầu tư?
Nhà đầu tư cá nhân hay pháp nhân thường quyết định đầu tư thông qua quỹ bởi 05 yếu tố:
4.1 Giảm thiểu rủi ro nhờ đa dạng hóa danh mục đầu tư
Như chúng ta đã biết một trong những nguyên tắc cơ bản khi đầu tư tài chính là ‘’ không bỏ tất cả trứng
vào một rổ’’ hay nói cách khác là phải biết đa dạng hóa danh mục đầu tư để giảm thiểu rủi ro.Trong đầu tư
chứng khoán thông qua QĐT thì nhà đầu tư sẽ lựa chọn được cho mình một danh mục đầu tư các loại
chứng khoán.Việc nắm giữ các loại chứng khoán khác nhau sẽ giúp các nhà đầu tư tránh thua lỗ toàn bộ
nếu như chỉ lựa chọn một loại chứng khoán trong trường hơp giá thị trường của các chứng khoán đã mua
giảm giá. Một cá nhân bình thường với số vốn hạn chế khó có thể đa dạng hoá một cách tối ưu danh mục
đầu tư của mình. Nhưng bằng phương thức kết hợp vốn cùng với nhiều người khác trong các quỹ đầu tư,
cá nhân đó có điều kiện chia phần lợi trong một tập hợp các chứng khoán được đa dạng tối đa.
4.2 Tiết kiệm chi phí nhưng vẫn đạt các yêu cầu về lợi nhuận
Như chúng ta đã biết khi đầu tư chứng khoán luôn có những khoản chí phí cố định và những khoản chi
phí thay đổi.Khi có nhiều người cùng tham gia vào QĐT để đầu tư vào cùng loại chứng khoán sẽ giúp tiết
kiệm những khoản chi phí cố định do yếu tố quy mô.Tuy giảm được các khoản chi phí nhưng lợi nhuận thu
được thì không vì thế mà giảm đi.Khi thông qua QĐT thì cùng một lúc sẽ có nhiều nhà đầu tư cùng muốn

tiền sau một khoảng thời gian qui định, thường là một tuần. Việc tính toán giá cổ phần của quỹ đầu tư rất
đơn giản, vì tổng tài sản của quỹ đầu tư hầu hết là các chứng khoán có độ linh hoạt cao, giá của nó được
cập nhật vào sau mỗi phiên giao dịch và dựa vào thị trường chứng khoán.
Giới thiệu sơ lược như vậy để ta thấy khả năng hấp dẫn và thuyết phục mà công cụ này có thể đem
lại, đặc biệt cho những nhà đầu tư trung bình và nhỏ hoặc những người chọn đầu tư theo thế thủ. Trong
chừng mực nào đó, ta có thể hiểu những nhà đầu tư vào các quỹ đầu tư khác với những nhà đầu tư vào
thị trường chứng khoán, đồng thời cũng không giống hoạt động tiết kiệm hoặc mua trái phiếu. Xét về mặt
thuận tiện, độ tin cậy và sự hấp dẫn của chúng, nhất là để thu hút những nguồn tiết kiệm nhỏ, ta thấy khó
có một hình thức đầu tư thay thế nào tốt hơn. Ngoài ra các quỹ đầu tư còn là định chế có thể giúp gia tăng
giao dịch trên thị trường chứng khoán.

5.Không phải không có những mối lo
Song song với tín hiệu lạc quan, có một số người lại tỏ thái độ nghi ngờ. Họ cho rằng, rất khó có thể giám
sát được hoạt động của các quỹ đầu tư và rất dễ xảy ra gian lận tại các quỹ này. Với một mức phí quản lý
dành cho các nhà quản lý lên tới 20% mức tăng giá trị hàng năm của quỹ, rất có thể đây là động cơ thúc
đẩy các nhà quản lý quỹ chấp nhận mạo hiểm một cách thái quá. Hơn nữa, hầu như không bao giờ nhà
quản lý quỹ phải chịu bất cứ một hình thức phạt nào vì việc đã làm cho giá trị của quỹ bị giảm và nhà quản
lý hoàn toàn có thể thu hẹp quy mô của quỹ để làm lại từ đầu. Khi tiền đổ vào các quỹ đầu tư càng nhiều
thì việc kiếm được các nhà quản lý quỹ có tài năng thực sự càng khó khăn và khả năng để kiếm được một
cơ hội đầu tư tốt lại càng ít hơn.
Khoảng một nửa trong số hơn 9.000 quỹ đầu tư tại Mỹ áp dụng chiến lược nắm giữ cổ phiếu của một số
công ty nhất định, trong khi bán khống những loại cổ phiếu khác để giảm thiểu rủi ro. Không thiếu cổ phiếu
để cho các quỹ đầu tư này đầu tư vào, vì vậy không cần lo lắng về việc những luồng vốn đầu tư mới sẽ
thổi phồng một cách quá đáng “quả bong bóng” giá của các quỹ đầu tư được nhiều người ưa chuộng.
Nhiều quỹ đầu tư có thâm niên đã không tiếp nhận thêm các nhà đầu tư mới, nhờ đó kìm hãm được phần
nào sự tăng giá do các luồng đầu tư mới gây ra. Tuy nhiên, cũng có nhiều quỹ đầu tư không cưỡng nổi sự
cám dỗ của việc phát triển quá lớn. Các quỹ này thường gặp khó khăn hơn trong việc đầu tư vốn một cách
hiệu quả và những vấn đề về mặt quản lý khi đội ngũ nhân viên của mình tăng lên.
Tóm lại, dù “quả bong bóng” quỹ đầu tư phòng hộ giá có nổ hay không thì có một điều chắc chắn rằng các
quỹ đầu tư trong tương lai sẽ hoạt động ngày một sôi động hơn. Mặc dù người ta vẫn


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status