Quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn DCPA - Pdf 88

Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trên đường hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực
và trên thế giới. Để khẳng định vị thế kinh tế của mình cũng như tạo niềm tin
cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, Việt Nam đang cố gắng để ngày càng
hoàn thiện thể chế kinh tế. Một trong những yêu cầu quản lý nền kinh tế là đòi
hỏi minh bạch hoá tình hình tài chính. Xuất phát từ yêu cầu đó, ngành kiểm
toán tại Việt Nam đang phát triển hết sức mạnh mẽ không chỉ về quy mô mà
cả loại hình dịch vụ cung cấp. Cũng xuất phát từ hội nhập kinh tế với sự cạnh
tranh của các công ty kiểm toán lớn và có uy tín trên thế giới, các công ty
kiểm toán Việt Nam đang phải nỗ lực hết sức để nâng cao chất lượng cuộc
kiểm toán, đáp ứng được yêu cầu chung trên thế giới.
Công ty TNHH kiểm toán và tư vấn DCPA là một công ty ra đời muộn.
Tuy nhiên nếu nhìn vào sự gia tăng số lượng khách hàng của DCPA trong
những năm qua, có thể thấy DCPA đang tạo được uy tín, gây dựng được niềm
tin với khách hàng. Đó là nhờ sự chú trọng của ban lãnh đạo công ty vào vấn
đề nâng cao chất lượng cuộc kiểm toán. Một cuộc kiểm toán chất lượng cao
phải được thực hiện tốt ngay từ giai đoạn đầu tiên, đặc biệt là trong những
giai đoạn đòi hỏi sự xét đoán của kiểm toán viên như giai đoạn đánh giá trọng
yếu và rủi ro.
Xuất phát từ tầm quan trọng, tính chất phức tạp của công việc đánh giá
trọng yếu và rủi ro, góp phần hoàn thiện kiến thức của bản thân, trong luận
văn tốt nghiệp này, em xin trình bày những hiểu biết của mình về “quy trình
đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty
TNHH kiểm toán và tư vấn DCPA”. Luận văn tốt nghiệp gồm 3 phần:
Phần I : Lý luận chung về đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán báo
cáo tài chính
1
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
Phần II: Thực trạng quy trình đánh giá rủi ro, trọng yếu tại công ty
TNHH kiểm toán và tư vấn DCPA.

1.1.1.1. Đánh giá trọng yếu, rủi ro trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán
Giai đoạn chuẩn bị kiểm toán bao gồm những bươc công việc theo trình
tự sau:

Sơ đồ 1.2: Trình tự công việc chuẩn bị kiểm toán
Đánh giá trọng yếu, rủi ro là một bước trung gian trong chuẩn bị kiểm
toán. Có thể nói mục đích của công việc chuẩn bị kiểm toán là lập kế hoạch
kiểm toán, thiết kế chương trình kiểm toán. Để thiết kế chương trình kiểm
toán phù hợp, kiểm toán viên cần tiến hành đánh giá rủi ro, xác định mức
trọng yếu đối với từng khách hàng cụ thể. Các bước công việc như chuẩn bị
Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán
Thu thập thông tin cơ sở
Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý
của khách hàng
Đánh giá trọng yếu, rủi ro kiểm toán
Lập kế hoạch kiểm toán toàn diện và thiết
kế chương trình kiểm toán
4
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
kế hoạch kế toán, thu thập thông tin cơ sở, thu thập thông tin về nghĩa vụ
pháp lý của khách hàng cũng nhằm cung cấp thông tin cho công việc đánh giá
trọng yếu, rủi ro.
1.1.1.2. Đánh giá trọng yếu, rủi ro trong giai đoạn thực hiện kiểm toán
Giai đoạn thực hiện kiểm toán bao gồm các thủ tục kiểm toán cụ thể như
sau:
- Thực hiện thử nghiệm kiểm soát
- Thực hiện thủ tục phân tích
- Thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết.
Khi tiến hành các thủ tục kiểm toán trên, kiểm toán viên sẽ hiểu rõ hơn
về khách hàng, những hiểu biết đó có thể khác với những đánh giá ban đầu

Dựa vào đánh giá rủi ro, trọng yếu, kiểm toán viên xác định được mức độ sai
sót có thể chấp nhận được đối với báo cáo tài chính, xác định được mức độ tin
cậy của hệ thống kiểm soát nội bộ. Trên cơ sở đó, kiểm toán viên xác định
được bản chất, số lượng, thới gian các thử nghiệm kiểm toán cần thực hiện,
lập ra kế hoạch kiểm toán và chương trình kiểm toán phù hợp. Đây chỉ là
những vấn đề chung nhất khi nói về vai trò của đánh giá trọng yếu, rủi ro
trong một cuộc kiểm toán. Vai trò cụ thể hơn sẽ được trình bày ở những phần
sau khi phân tích cụ thể về trọng yếu và rủi ro trong một cuộc kiểm toán báo
cáo tài chính.
1.2. LÝ LUẬN VỀ RỦI RO TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI
CHÍNH
1.2.1. Khái niệm về rủi ro trong kiểm toán báo cáo tài chính
Rủi ro là một trong những khái niệm cơ bản của kiểm toán tài chính.
Trong mỗi cuộc kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải đối mặt với hai loại
rủi ro cơ bản: rủi ro kiểm toán và rủi ro nghề nghiệp.
6
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro
do kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp
khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu”
Theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế (ISAs) : “Rủi ro kiểm toán là rủi ro
kiểm toán viên đưa ra ý kiến kiểm toán không phù hợp khi báo cáo tài chính
còn có sai sót trọng yếu”
Vậy, rủi ro kiểm toán được hiểu là khả năng kiểm toán viên đưa ra ý kiến
không xác đáng về đối tượng được kiểm toán. Thông thường, đây là rủi ro
kiểm toán viên đưa ra ý kiến báo cáo tài chính trình bày trung thực và hợp lý
trên các khía cạnh trọng yếu trong khi báo cáo đó vẫn chứa đựng những sai
phạm trọng yếu. Kiểm toán viên có thể kiểm soát được loại rủi ro này trong
mỗi cuộc kiểm toán bằng cách tìm hiểu kỹ về khách hàng và tiến hành những
thủ tục kiểm toán thích hợp.

ro kiểm toán mong muốn được xác định nhỏ hơn 1%.
1.2.2.1.2. Xác định mức rủi ro kiểm toán mong muốn
Mức rủi ro kiểm toán mong muốn đối với toàn bộ báo cáo tài chính được
kiểm toán viên xác định căn cứ vào các yếu tố sau:
a) Số lượng người sử dụng thông tin tài chính
Số lượng người sử dụng thông tin trong báo cáo tài chính càng lớn, ảnh
hưỏng của sai sót trọng yếu không được phát hiện càng lớn, mức rủi ro kiểm
toán, do đó, phải càng thấp để tăng mức độ chính xác cho kết luận của kiểm
toán viên. Số lượng người sử dụng thông tin tài chính có thể được kiểm toán
viên ước lượng bằng các chỉ tiêu sau:
- Quy mô công ty khách hàng: Quy mô công ty khách hàng thể hiện ở
tổng tài sản, doanh thu, số lượng chi nhánh, mức độ rải rác của các chi nhánh.
8
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
Có thể thấy với quy mô càng lớn, số người có liên quan đến công ty càng lớn,
do đó, số lượng người sử dụng báo cáo tài chính càng lớn.
- Phân phối quyền sở hữu: Những công ty sở hữu công cộng có ảnh
hưởng đến nhiều người hơn những công ty sở hữu tư nhận. Do đó, số lượng
người quan tâm đến thông tin tài chính của những công ty sở hữu công cộng
cũng nhiều hơn. -
- Tình hình công nợ , khả năng thanh toán của khách hàng: Công ty có
nhiều chủ nợ, khả năng thanh toán không tôt, số lượng chủ nợ quan tâm đến
báo cáo tài chính của công ty càng lớn.
- Khả năng tăng doanh thu, lợi nhuận của công ty: Khả năng tăng doanh
thu, lợi nhuận của công ty càng lớn, số lượng người muốn đầu tư vào công ty
càng lớn, quy mô của công ty cũng càng lớn. Do đó, số lượng người quan tâm
đến báo cáo tài chính của công ty càng lớn
- Số lượng nhân viên của công ty khách hàng: nhân viên của công ty
khách hàng là một trong những đối tượng quan tâm đến báo cáo tài chính của
công ty khách hàng. Mặt khác, mọi mặt hoạt động của công ty có ảnh hưởng

doanh của khách hàng, năng lực của nhân viên trong công ty khách hàng.
1.2.2.2.2. Đánh giá rủi ro tiềm tàng
a) Đánh giá rủi ro tiềm tàng cho toàn bộ báo cáo tài chính
Để đánh giá mức độ rủi ro tiềm tàng đối với báo cáo tài chính của công
ty khách hàng, kiểm toán viên căn cứ vào các yếu tố sau:
a1) Đặc thù về quản lý của công ty khách hàng
Chất lượng quản lý càng cao, mức độ rủi ro tiềm tàng được đánh giá
càng thấp. Chất lượng quản lý được đánh giá dựa vào những tiêu chí sau:
- Các quyết định quản lý được thực hiện bởi một người hay một nhóm
người: Nếu công ty khác hàng bị chi phối bởi một cá nhân, mức độ xuất hiện
rủi ro trọng yếu trong báo cáo tài chính sẽ cao hơn trường hợp những quyết
định quản lý được thực hiện bởi một nhóm người. Có thể thấy nếu một cá
10
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
nhân riêng lẻ chi phối toàn bộ tổ chức, khả năng gian lận nhằm phục vụ cho
lợi ích cá nhân đó sẽ cao. Mặt khác, những quyết định quản lý được thực hiện
bởi một cá nhân chi phối toàn bộ tổ chức không được soát xét lại bởi những
thành viên khác, do đó, làm tăng khả năng xuất hiện những quyết định sai
lầm.
- Mức độ luân chuyển các nhà quản lý cấp cao: Nếu kiểm toán viên nhận
thấy các nhân sự quản lý cấp cao liên tục thay đổi, kiểm toán viên nên đặt ra
những nghi ngờ về tính liêm khiết cũng như năng lực của các nhà quản lý đo,
từ đó, đánh giá rủi ro tiềm tàng ở mức cao.
- Các nhà quản lý kỳ vọng quá mức vào một mức lợi nhuận cao: Nếu
kiểm toán viên nhận thấy nhà quản lý có động cơ mạnh mẽ để tìm kiếm một
mức lợi nhuận cao như để vay vốn ngân hàng, để chuẩn bị phát hành chứng
khoán; kiểm toán viên nên chú ý đến khả năng ghi nhận tăng doanh thu, giảm
chi phí, nên đánh giá rủi ro tiềm tàng ở mức cao.
- Các nhà quản lý tỏ thái độ bất hợp tác, trốn tránh cam kết về trách
nhiệm của nhà quản lý đối với các thông tin trên báo cáo tài chính của khách

thay đổi tỷ giá, thay đổi chính sách kinh tế có liên quan... đối với hoạt động
của công ty khách hàng càng cao, rủi ro tiềm tàng đối với báo cáo tài chính
của công ty khách hàng cũng được đánh giá càng cao.
- Khả năng sinh lợi của công ty có sự khác biệt lớn so với mức độ chung
của ngành: Mức độ khác biệt càng lớn, đánh giá của kiểm toán viên về mức
rủi ro tiềm tàng cũng càng lớn, kiểm toán viên cần tìm hiểu nguyên nhân của
sự khác biệt đó.
- Ngành nghề kinh doanh của khách hàng có rủi ro cao: Mức rủi ro
chung của ngành nghề kinh doanh càng cao, đánh giá của kiểm toán viên về
mức rủi ro tiềm tàng cũng càng cao.
12
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
- Tốc độ thay đổi chung của ngành nghề kinh doanh: Tốc độ thay đổi nói
chung của ngành nghề kinh doanh càng lớn, đánh giá của kiểm toán viên về
mức rủi ro tiềm tàng càng cao.
- Ngành nghề kinh doanh của khách hàng đang gặp những khó khăn
chung: Mức độ khó khăn này càng cao, đánh giá của kiểm toán viên về mức
độ rủi ro tiềm tàng càng cao.
- Kiểm toán viên có sự nghi ngờ về khả năng tiếp tục hoạt động trong
tương lai của công ty khách hàng: khả năng nghi ngờ càng lớn, đánh giá của
kiểm toán viên về mức độ rủi ro tiềm tàng càng cao.
a3) Đặc điểm của báo cáo tài chính
- Kết quả kiểm toán năm trước đối với báo cáo tài chính của khách hàng:
Nếu trong lần kiểm toán năm trước, kiểm toán viên phát hiện ra sai sót trọng
yếu đối với báo cáo tài chính của công ty khách hàng, kiểm toán viên sẽ đánh
giá rủi ro tiềm tàng ở mức cao.
- Báo cáo tài chính chứa đựng nhiều nghiệp vụ phức tạp và nghiệp vụ bất
thường: Trong trưòng hợp này, kiểm toán viên đánh giá mức rủi ro tiềm tàng
cao hơn trường hợp báo cáo tài chính không chứa đựng các nghiệp vụ phức
tạp và nghiệp vụ bất thường.

1.2.2.3. Rủi ro kiểm soát (CR)
1.2.2.3.1. Khái niệm rủi ro kiểm soát
Rủi ro kiểm soát là khả năng báo cáo tài chính chứa đựng sai phạm trọng
yếu do hệ thống kiểm soát nội bộ không phát hiện và ngăn ngừa được hết
những sai phạm đó.
Đánh giá rủi ro kiểm soát có vai trò rất lớn đối với việc lập kế hoạch
kiểm toán. Nếu kiểm toán viên quyết định đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức
cao nhất (100%) vì nhận thấy thủ tục kiểm soát trong công ty khách hàng
hoàn toàn không hiệu quả, kiểm toán viên không thể dựa vào hệ thống kiểm
soát nội bộ để giảm bớt các thử nghiệm cơ bản. Khi đó, kiểm toán viên sẽ
14
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
thiết kế chương trình kiểm toán với một số lượng lớn thử nghiệm cơ bản để
làm giảm rủi ro kiểm toán xuống mức mong muốn. Ngược lại, nếu kiểm toán
viên quyết định đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức thấp hơn mức cao nhất vì
nhận thấy thủ tục kiểm soát trong công ty khách hàng có hiệu quả, kiểm toán
viên có thể dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ để giảm bớt các thử nghiệm cơ
bản. Khi đó, kiểm toán viên sẽ thiết kế chương trình kiểm toán với một số
lượng lớn thử nghiệm kiểm soát để khẳng định lại mức độ hiệu quả của hệ
thống kiểm soát nội bộ và một số lượng thử nghiệm cơ bản ít hơn so với
trường hợp rủi ro kiểm toán được đánh giá ở mức cao nhất.
1.2.2.3.2. Đánh giá rủi ro kiểm soát
Rủi ro được đánh giá căn cứ vào hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm
soát nội bộ. Hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động càng hiệu quả, rủi ro kiểm
soát được kiểm toán viên đánh giá càng thấp.
a) Đánh giá rủi ro kiểm soát cho toàn bộ báo cáo tài chính của công ty khách
hàng
Hệ thống kiểm soát nội bộ được đánh giá chung cho toàn bộ báo cáo tài
chính dựa trên những tiêu chí sau:
a1) Môi trường kiểm soát

Việc đánh giá tiêu chí này phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm nghề
nghiệp của kiểm toán viên. Nếu kiểm toán viên nhận thấy nhà quản lý có
quan điểm đúng đắn, phong cách làm việc chuyên nghiệp, kiểm toán viên sẽ
đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức thấp.
- Cơ cấu tổ chức doanh nghiệp: Cơ cấu tổ chức của công ty khách hàng
được đánh giá càng cao, mức rủi ro kiểm soát được kiểm toán viên đánh giá
càng thấp.
16
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
- Phân chia trách nhiệm và quyền hạn: Việc phân chia trách nhiệm và
quyền hạn liên quan đến hệ thống cấp bậc trong doanh nghiệp. Hệ thống cấp
bậc càng hợp lý, mức rủi ro kiểm soát càng thấp.
- Chính sách nhân sự: chính sách nhân sự bao gồm cả chính sách tuyển
dụng và các chính sách liên quan đến người lao động trong doanh nghiệp.
Chất lượng của nguồn nhân lực sẽ quyết định trực tiếp đến chất lượng hoạt
động kiểm soát. Do vậy, chính sách nhân sự của công ty khách hàng được
đánh giá càng cao, mức rủi ro kiểm soát càng thấp.
a2) Hệ thống kế toán
Hệ thống kế toán là hệ thống thông tin liên quan đến mục tiêu báo cáo tài
chính của đơn vị, bao gồm: phương pháp thiết lập, ghi chép, xử lý, tóm tắt,
báo cáo các nghiệp vụ kinh tế của doanh nghiệp; giải trình những vấn đề liên
quan đến tài sản, công nợ. Một hệ thống kế toán có hiệu quả cần đảm bảo
được những yêu cầu sau:
- Xác định và ghi chép tất cả các nghiệp vụ hợp lệ.
- Ghi chép các nghiệp vụ kịp thời với đầy đủ các chi tiết phục vụ cho
việc phân loại các nghiệp vụ, lập báo cáo tài chính.
- Ghi chép các nghiệp vụ theo đúng đơn vị tiền tệ quy định
- Xác định đúng thời gian các nghiệp vụ diễn ra để ghi chép đúng kỳ kế
toán.
- Các nghiệp vụ và những vấn đề có liên quan phải được ghi lại trên báo

kiểm toán. Do đó, hiệu quả hoạt động càng cao.
- Nhân viên của bộ phận kiểm toán nội bộ có đáp ứng được yêu cầu về
năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp hay không. Năng lực và đạo
đức của nhân viên bộ phận kiểm toán nội bộ được đánh giá càng cao, hiệu quả
hoạt động được đánh giá càng cao.
18
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
Hiệu quả hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ được đánh giá càng
cao, rủi ro kiểm soát càng thấp.
b) Đánh giá rủi ro kiểm soát cho từng khoản mục trên báo cáo tài chính của
công ty khách hàng
Đối với mỗi khoản mục khác nhau, kiểm toán viên sẽ có những yêu cầu
khác nhau về kiểm soát, tuy nhiên, các thủ tục kiểm soát đối với mỗi khoản
mục đều phải tuân thủ các nguyên tắc :
- Phân công, phân nhiệm
- Bất kiêm nhiệm
- Chế độ uỷ quyền và phê chuẩn.
Quy trình chung để đánh giá rủi ro kiểm soát trên từng khoản mục theo
trình tự sau:
Sơ đồ 1.3 Quy trình đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ trên từng khoản mục
1.2.2.4. Rủi ro phát hiện
1.2.2.4.1. Khái niệm rủi ro phát hiện
Thu thập hiểu biết về hệ thống
kiểm soát nội bộ
Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm
soát để lập kế hoạch kiểm toán cho
từng khoản mục
Thực hiện thử nghiệm kiểm soát
Lập bảng đánh giá hệ thống kiểm
soát nội bộ

Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
DR =
CR x IR
DAR
Trên cơ sở công thức trên, một số công ty kiểm toán đưa ra ma trận về
việc xác định rủi ro phát hiện trên cơ sở rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát
như sau:
Bảng 1.1. Ma trận xác định rủi ro phát hiện
Đánh giá về CR
Cao Trung bình Thấp
Đánh
giá về
IR
Cao Thấp nhất Thấp Trung bình
Trung bình Thấp Trung bình Cao
Thấp Trung bình Cao Cao nhất
1.2.2.5. Mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm toán
Trước hêt, xét đến mối quan hệ giữa rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát.
Mặc dù rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được xem là hai loại rủi ro riêng
biệt nhưng trong đa số các cuộc kiểm toán, những nhân tố làm tăng hay giảm
rủi ro tiềm tàng thì cũng làm tăng hay giảm rủi ro kiểm soát tương ứng.
Chẳng hạn tính liêm chính của ban Giám đốc công ty nếu được đánh giá
không tốt sẽ làm tăng cả rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát.
Nhìn vào mô hình rủi ro kiểm toán có thể thấy, với mức rủi ro kiểm toán
mong muốn đã được xác định, ba loại rủi ro còn lại: rủi ro tiềm tàng, rủi ro
phát hiện, rủi ro kiểm soát có mối quan hệ tỷ lệ nghịch, tức là loại rủi ro này
càng cao thì loại rủi ro kia càng thấp và ngược lại. Trên thực tế, rủi ro phát
hiện được xác định trên cơ sở rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá càng cao, mức độ rủi ro phát hiện cần
thiết càng thấp, do đó, các thử nghiệm cơ bản càng cần được thực hiện với số

viên cần xem xet bao gồm:
a) Sử dụng quy mô tuyệt đối hay quy mô tương đối để đánh giá tính trọng yếu
Quy mô tuyệt đối là con số thể hiện mức quan trọng mà không cần cân
nhắc thêm bất kỳ một yếu tố nào khác. Quy mô tuyệt đối rất ít khi được kiểm
22
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
toán viên sử dụng vì không phù hợp với những công ty khác nhau. Chẳng
hạn, mức 1.000.000 VND trong tổng tài sản 200.000.000.000 VND được coi
là không trọng yếu nhưng con số đó trong tổng tài sản 20.000.000 VND lại
được coi là trọng yếu.
Thông thường, kiểm toán sử dụng quy mô tương đối để đánh giá tính
trọng yếu. Quy mô tương đối thể hiện mối tương quan giữa đối tượng cần
đánh giá với một số gốc được lựa chọn. Số gốc được lựa chọn có thể rất khác
nhau trong những trường hợp khác nhau, đó có thể là tổng tài sản, tổng doanh
thu, tổng tài sản ngắn hạn, tổng tài sản cố định... tuỳ thuộc đánh giá của kiểm
toán viên.
b) Cộng dồn các sai phạm
Khi xem xét tính trọng yếu của một khoản mục, cần cân nhắc ảnh hưởng
của một hệ thống các sai phạm. Chẳng hạn nhiều sai phạm khi xét riêng rẽ thì
không trọng yếu nhưng nếu cộng dồn những sai phạm đó sẽ phát hiện thấy
tính hệ thống của sai phạm và phát hiện ra tính trọng yếu của chúng.
1.3.2.2. Ảnh hưởng của yếu tố định tính đối với việc đánh giá tính trọng yếu
Yếu tố định tính cần được xem xét là bản chất của khoản mục hoặc vấn
đề cần xem xét. Những nghiệp vụ, khoản mục cần được xem là trọng yếu
gồm:
a) Các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc dễ xảy ra gian lận
Bao gồm:
- Những khoản mục nghiệp vụ bất hợp pháp: những khoản mục , nghiệp
vụ bất hợp pháp được coi là trọng yếu dù có quy mô nhỏ.
- Những khoản mục, nghiệp vụ bất thường: những khoản mục, nghiệp vụ

trọng yêu.
- Các khoản mục, nghiệp vụ có chênh lệch lớn với các kỳ trước hoặc với
các nguồn thông tin liên quan.
24
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
1.3.3. Quá trình đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính
Quá trình đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính gồm 3
bước cơ bản như sau:
Sơ đồ 1.4. Quá trình đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính
1.3.3.1. Thiết lập ước lượng ban đầu về mức trọng yếu
Kiểm toán viên cần thiết lập ước lượng ban đầu về mức trọng yếu trong
bước chuẩn bị kiểm toán. Ước lượng ban đầu này cần được xác định bằng số
lượng cụ thể. Ước lượng ban đầu về mức trọng yếu là số lượng mà tại đó
kiểm toán viên tin rằng sai sót nếu có không làm ảnh hưởng đến quyết định
của người sử dụng báo cáo tài chính.
Như đã nói trong phần cơ sở đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo
tài chính, quy mô tương đối rất ít khi được sử dụng trong đánh giá tính trọng
yếu. Thông thường, kiểm toán viên sẽ thiết lập một số gốc, trên cơ sở số gốc
đó để ước lượng mức trọng yếu. Số gốc được sử dụng thông thường là tổng
Bước 1
Bước 2
Bước 3
Thiết lập ước lượng ban đầu về mức trọng yếu
Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho từng
khoản mục
Tổng hợp sai phạm
Bước 4
So sánh sai phạm đã tổng hợp với ước lượng ban
đầu về trọng yếu
25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status