Hợp tác quốc tế về du lịch ở Việt Nam - Pdf 88

Luận văn tốt nghiệp
LỜIGIỚITHIỆU
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá Du lịch đã trở thành một nhu cầu
không thể thiếu được- một hiện tượng phổ biến trong xã hội. Du lịch Việt
Nam đang có những bước triển biến rõ rệt, lượng khách Du lịch trong nước và
nước ngoài ngày càng gia tăng. Ngành đãđóng góp rất lớn vào nền kinh tể
nước ta và góp phần không nhỏ vào việc thực hiện CNH- HĐH đất nước, cải
thiện đời sống của nhân dân. Thu nhập từ các hoạt động kinh doanh Du lịch
ngày càng cao đãđưa Du lịch trở thành một ngành “công nghiệp không khói”
đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất
nước.
Mặc dù vậy nhưng ngành Du lịch ở nước ta vẫn còn đơn giản, lạc hậu,
chưa thực sựđược chú trọng khai thác hết tiềm năng. Chúng ta phải có một cơ
sở pháp lý rõ ràng, chi tiết để Nhà nước có thể quản lý chặt chẽ hơn và như
vậy các công ty du lịch hoạt động nghiêm túc, hiệu quả hơn giúp cho khách
du lịch thuận tiện, thoải mái và an toàn khi đi du lịch ở Việt Nam.
Ngoài ra để phát triển ngành Du lịch cần phải hội nhập với thế giới.
Đối với nước ta một nước đang phát triển thì hội nhập là con đường tốt nhất
để rút ngắn tụt hậu so với các nước khác và cóđiều kiện phát huy tốt hơn
những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Vấn đềđặt ra với Việt Nam không phải là có hội nhập hay không mà là hội
nhập như thế nào ? tiến trình và cách thức đểáp dụng tốt nhất. Thực tế cho
thấy không có một quốc gia nào có thể tự lực xây dựng một nền kinh tế nội
địa có hiệu quả mà không cần đến bên ngoài. Vì vậy hội nhập trong giai đoạn
hiện nay là rất cần thiết vàđược bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Việt Nam luôn làđiểm đến an toàn, tin tưởng của du khách quốc tế, vì
vậy chúng ta phải xây dựng và bổ sung hoàn chỉnh hệ thống pháp luật nhằm
thúc đẩy ngành du lịch phát triển và hội nhập với thế giới, giúp bạn bè thếgiới
Luận văn tốt nghiệp
đến với Việt Nam nhiều hơn, thông qua đó mở rộng các mối quan hệ hợp tác

năm 1960 ngành Du lịch đã ra đời đánh dấu nhận thức của Đảng và Nhà nước
về triển vọng kinh tế này.
Trong suốt 45 năm hình thành và phát triển, đặc biệt trong thời kỳđổi
mới và hội nhập, Du lịch Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc,
nhanh chóng thu hẹp khoảng cách về phát triển Du lịch với các nước trong
khu vực trở thành ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế
xã hội của đất nước.
1.2. Khái niệm về Du lịch
Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại , Du lịch đãđược ghi nhận như một sở
thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, du lịch đã
trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉở các nước phát
triển mà còn ở cả các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên,
cho đến nay, nhận thức về nội dung du lịch trên thế giới vẫn chưa thống nhất.
Bởi hoàn cảnh (thời gian, khu vực) khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu
khác nhau, mỗi người có một cách hiểu về du lịch khác nhau. Đúng như một
chuyên gia đã nhận định “đối với du lịch có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì
có bấy nhiêu định nghĩa”.
Luận văn tốt nghiệp
Trong giáo trình Thống kê Du lịch , Nguyễn Cao Thường và TôĐông
Hải chỉ ra rằng: Du lịch là một ngành kinh tế xã hội, dịch vụ, có nhiệm vụ
phục vụ nhu cầu tham quan, giải trí nghỉ ngơi có hoặc không kết hợp với các
hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác.
Nhưng theo hai học giả Hoa Kỳ - Mathieson và Wall thì du lịch là sự di
chuyển tạm thời của người dân đến ngoài nơi ở và làm việc của họ là những
hoạt động xảy ra trong quá trình lưu lại nơi đến và các cơ sở vật chất tạo ra
đểđáp ứng những nhu cầu của họ.
Còn theo nhàđịa lý học Michaud lại cho rằng: Du lịch là tập trung
những hoạt động sản xuất và tiêu thụ phục vụ cho việc đi lại và ngủít nhất
một đêm người nơi ở thường ngày với lý do giải trí, kinh doanh, sức khoẻ, hội
họp, thể thao hoặc tôn giáo.

Như vậy, ảnh hưởng kinh tế của Du lịch được thể hiện thông qua tác
động qua lại của quá trình tiêu dùng và cung ứng sản phẩm Du lịch . Quá
trình này tác động lên lĩnh vực phân phối, lưu thông và do vậy ảnh hưởng đến
những lĩnh vực khác nhau của quá trình tái sản xuất xã hội.
Trên bình diện chung, hoạt động Du lịch có tác dụng biến đổi cán cân
thu chi của khu vực và của đất nước. Du khách quốc tế mang ngoại tệ vào đất
nước mà họđi Du lịch , làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho nước đến, ngược lại
phần thu ngoại tệ tăng lên đối với những quốc gia có nhiều người Du lịch
nước ngoài. Trong phạm vi một quốc gia, hoạt động Du lịch làm xáo động
hoạt động luân chuyển tiền tệ, hàng hoá. Cán cân thu chi được thực hiện giữa
các vùng có trình độ kinh tế khác nhau, tuy không làm biến đổi cán cân kinh
tế của đất nước, song có tác dụng điều hoá nguồn vốn từ vùng kinh tế phát
triển sang vùng kém phát triển hơn kích thích sự tăng trưởng kinh tế các vùng
sâu vùng xa.
Luận văn tốt nghiệp
Khi khu vực nào đó trở thành một điểm Du lịch , du khách từ mọi nơi
đổ về sẽ làm cho nhu cầu về mọi hàng hoá tăng lên đáng kể. Việc đòi hỏi một
số lượng lớn vật tư, hàng hoá các loại đã kích thích mạnh mẽ các ngành kinh
tế có liên quan, đặc biệt là nông nghiệp, công nghiệp chế biến......Bên cạnh đó
các hàng hoá vật tư cho Du lịch đòi hỏi phải có chất lượng cao, phong phú về
chủng loại, hình thức đẹp và hấp dẫn. Điều này có nghĩa là yêu cầu hàng hoá
phải được sản xuất trên một công nghệ cao, trình độ tiên tiến...để sản xuất ra
các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của du khách.
So với ngoại thương ngành Du lịch cũng có nhiều ưu thế nổi trội. Du
lịch quốc tế xuất khẩu tại chỗđược nhiều mặt hàng không phải qua nhiều khâu
nên tiết kiệm được lao động, chênh lệch giá giữa người bán và người mua
không quá cao.
Qua đây, ta thấy Du lịch có tác dụng tích cực làm thay đổi bộ mặt kinh
tế của nền kinh tếđất nước. Ngược lại, nó cũng có một sốảnh hưởng tiêu cực,
rõ ràng nhất là tình trạng lạm phát cục bộ hay giá cả hàng hoá tăng cao, nhiều

thành ngành Du lịch Việt Nam. Chính vì vậy, ngày 9 tháng 7 được coi là ngày
thành lập của ngành Du lịch Việt Nam.
Ngày 23/1/1979, Thủ tướng đã ban hành Nghịđịnh 32/CP chính thức
thành lập Tổng cục Du lịch. Sự ra đời của Tổng cục Du lịch cho thấy Đảng và
Nhà nước đãđánh giá cao vai trò của du lịch trong giai đoạn mới. Điều đóđã
tạo ra bước ngoặt mới đối với hoạt động du lịch Việt Nam. Với cơ sở vật chất
lớn mạnh, quyền hạn được mở rộng, giai đoạn này Tổng cục Du lịch trực tiếp
quản lý trên 30 công ty du lịch trong cả nước cùng với hàng trăm khách sạn,
nhà hàng, biệt thự, hàng ngàn phương tiện, hàng vạn CBCNV có trình độ và
kinh nghiệm để phục vụ khách trong và ngoài nước.
Luận văn tốt nghiệp
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(12/1986) là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu sự khởi đầu cho một
giai đoạn mới của đất nước. Đó làđường lối đổi mới. Luồng gió này đãđem lại
một nguồn sinh lực mới cho tất cả mọi hoạt động của đời sống xã hội như
kinh tế, văn hoá, giáo dục, quản lý… Với chính sách mở cửa: Việt Nam muốn
là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, du lịch nước ta đã thựuc
sự cóđiều kiện khởi sắc. Có thể nói, đây là mốc thứ ba trong lịch sử phát triển
Du lịch Việt Nam hiện đại. Từ sau Đại hội VI, nền kinh tếđất nước đã bắt đầu
có sự chuyển đổi về cơ bản. Thêm vào đó, năm 1990 được chọn là Năm Du
lịch Việt Nam đã góp phần thúc đẩy một cách đáng kể hoạt động du lịch nước
nhà. Hoạt động kinh doanh du lịch đã mở ra ở nhiều ngành, nhiều cơ quan,
không chỉ trong phạm vi các thành phần kinh tế nhà nước mà còn ở cả những
thành phần kinh tế khác. Trước xu thếđó, du lịch không chỉ còn được coi là
một hoạt động văn hoá xã hội thuần tuý nữa màđãđược khẳng định còn là một
ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Ngày 9 tháng 4 năm 1990, Hội đồng
Bộ trưởng đã ra Nghịđịnh 119 HĐBT về việc thành lập Tổng Công ty Du lịch
Việt Nam. Tên đối ngoại của Tổng Công ty du lịch Việt Nam là
Vietnamtourism. Tổng Công ty có các chi nhánh là các công ty ở TP. Hồ Chí
Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng. Sự xuất hiện của Tổng Công ty Du lịch Việt Nam

nhiệm vụ và trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đoàn thể nhân dân và
các tổ chức xã hội. Quan điểm này là chỗ dựa vững chắc cho ngành Du lịch
trong việc huy động, liên kết với các ngành kinh tế, văn hoáđểđi lên. Quan
điểm thứ 3 đặc biệt nhấn mạnh, đồng thời với phát triển du lịch quốc tế cần
phải chú trọng phát triển du lịch nội địa. Quan điểm này chỉ ra vai trò hết sức
quan trọng của du lịch trong phát triển xã hội, khẳng định du lịch không chỉ
nên coi là một ngành kinh tếđơn thuần mà phải được coi là một ngành kinh tế
mang tính xã hội sâu sắc lấy mục đích đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của
nhân dân, góp phần nâng cao dân trí, lòng yêu nước, tăng cường sức khoẻ…
là nhiệm vụ quan trọng.
Luận văn tốt nghiệp
Ngày 24/12/199 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
khoá VIII đã ra Nghị quyết 02-NQ/HNTW vềđịnh hướng chiến lược phát
triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ CNH, HĐH và nhiệm vụđến năm
2000. Trong Nghị quyết chỉ rõ: Một trong những nhiệm vụ nghiên cứu trọng
tâm là nghiên cứu các vấn đề lịch sử, dân tộc tôn giáo, ngôn ngữ, văn học,
nghệ thuật, tư tưởng, triết học… xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc. Dưới góc độ du lịch. Nghị quyết này đã làm phong phú thêm
nguồn tài nguyên du lịch, góp phần thu hút du khách, phát triển du lịch nước
nhà.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng đã dành rất nhiều
thời gian và sự quan tâm tới lĩnh vực du lịch. Để phát triển du lịch Việt Nam
theo quan điểm bền vững, về mặt tài nguyên, Đại hội chỉ rõ cần phải: bảo tồn
và khai thác vẻđẹp cảnh quan thiên nhiên và các di tích lịch sửđể phát triển du
lịch.
Một trong những nội dung cơ bản của thời kỳ CNH, HĐH trong những
năm trước mắt Đại hội khẳng định là: phát triển nhanh du lịch, các dịch vụ…
phục vụ cuộc sống nhân dân. Từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm
du lịch, Thương mại - dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực.
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụđó, Đại hội xác định cần phải: triển

triển nhanh du lịch quốc tế và phát triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình
độ phát triển du lịch của khu vực.
Chủ trương này đã vàđang mang lại hiệu quả rõ rệt. Hiện nay, về cơ bản
chúng ta đãđáp ứng đủ nhu cầu lưu trú của du khách. Hơn một nửa số buồng
phòng đãđạt tiêu chuẩn quốc tế.
Dưới sự chỉđạo nhạy bén của Đảng và Chính phủđặc biệt từ sau thời
kỳđổi mới Du lịch Việt Nam đãđạt được kết quả rất khả quan. Ngoài việc tăng
Luận văn tốt nghiệp
trưởng về số lượng khách du lịch, thu nhập du lịch tăng bình quân trên 60%
năm chiếm khoảng 4% GDP của cả nước.
Năm 2004, năm cóý nghĩa đăc biệt quan trọng đối với du lịch Việt Nam
trong việc thực hiện nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 2001-2005 và Nghị quyết Đại
hội Đảng lần thứu IX phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều bất ổn, nhưng với sự nỗ lực
của toàn Ngành, sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự chỉđạo điều hành của
Chính phủ, sự phối hợp của các Bộ, Ngành vàđịa phương, sự hưởng ứng của
toàn xã hội nên Du lịch Việt Nam vẫn đạt được nhịp độ tăng trưởng cao. Năm
2004, hoạt động du lịch diễn ra sôi động với hàng loạt sự kiện: Năm Du lịch
Điện Biên Phủ, Festival Huế, Liên hoan Văn hoá - Du lịch Đà Nẵng, tháng
Du lịch Hội An "Cảm xúc mùa hè", lễ hội "Nhịp cầu xuyên Á", lễ hội giao
lưu văn hoá du lịch Việt - Nhật, lễ hội "Sắc hoa Đà Lạt"… So với năm 2003
khách du lịch quốc tếđến Việt Nam đạt 2,93 triệu lượt, tăng 20,5%; khách du
lịch nội địa đạt 14,5 triệu lượt, tăng 11,5%; thu nhập du lịch đạt 26.000
tỷđồng, tăng 18,1%. Mười thị trường dẫn đầu khách quốc tếđến Việt Nam vẫn
tiếp tục được duy trìđó là: Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc,
Australia, Pháp, Campuchia, Anh, Đức.
Hoạt động du lịch sôi động, tăng diện và quy mô, nhưng vẫn đảm bảo
được an ninh và trật tự an toàn xã hội.
Những việc đã làm, những kết quả bước đầu đãđạt được, những kinh
nghiệm đã tích luỹ là hành trang của Du lịch Việt Nam trên con đường trở

của Chính phủ. Những năm đầu tiên với mục đích phục vụ chủ yếu cho khách
nội địa đó là những công dân có thành tích trong chiến đấu, học tập, lao động
được đi nghỉ mát, điều dưỡng.
Đến ngày 12/9/1969, ngành Du lịch giao cho Bộ Công an và Văn phòng
Thủ tướng trực tiếp quản lý. Năm 1977 du lịch được giao cho ngành Công an
quản lý.
Do tính chất, nhiệm vụ của đất nước mà du lịch chưa cóđiều kiện để
phát triển.
Năm 1978, BTN Quốc hội ban hành Nghịđịnh 282/NQQ QHK6 thành
lập Tổng cục Du lịch trên cơ sở một Vụ của Bộ Nội vụ trực thuộc Hội đồng
Bộ trưởng. Sự kiện này đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong quá
trình phát triển của ngành du lịch Việt Nam. Bởi vì sự kiện này đã phản ánh
mức độ nhận thức về tầm quan trọng và vai trò hiệu quả kinh tế - xã hội của
nóđối với sự phát triển của nước nhà.
Chính sự thay đổi về mặt tổ hức này đã mở rộng thẩm quyền và chức
năng của cơ quan quản lý du lịch. Giai đoạn này, bộ máy tổ chức và quản lý
của Tổng cục Du lịch dần được hoàn thiện, ngày 23/1/1979 Hội đồng Bộ
trưởng ra Nghịđịnh 32/CP quy định chức năng và nhiệm vụ của ngành Du
lịch, năm 1981 ban hành Nghịđịnh 137/CP quy định phương hướng phát triển
của ngành. Cũng năm 1981 Du lịch Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ
chức Du lịch thế giới (WTO). Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành cũng được
Luận văn tốt nghiệp
mở rộng bằng việc xây dựng khánh sạn mới ở miền Bắc, tiếp quản các khách
sạn của chếđộ cũ sau ngày miền Nam giải phóng.
Năm 1986 một sự kiện lịch sử quan trọng đã diễn ra, đánh dấu sự khởi
đầu cho một giai đoạn cho một giai đoạn mới của đất nước. Đó làđường lối
đổi mới nền kinh tế do Đại hội Đảng toàn quốc lần VI đề ra. Với chính sách
mở cửa: Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước, du lịch Việt Nam đã thực
sự cóđiều kiện khởi sắc. Tuy nhiên, phải 4 năm sau, tức là năm 1990 chúng ta
mới thấy được những bước chuyển mình của du lịch Việt Nam.

lực của cán bộ công nhân viên toàn ngành, nên du lịch Việt Nam đãđạt được
các kết quả tiến bộđáng kể.
Khi nói đến cơ sở pháp lý về du lịch - không thể không đề cập đến một
sự kiện quan trọng làm cơ sở thay đổi bộ mặt du lịch ở Việt Nam. Đó là:
tháng 2 năm 1999, UBTV Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Du lịch - Lần đầu
tiên ở Việt Nam Du lịch được điều chỉnh bằng những nguyên tắc, quy phạm
pháp luật trong một văn bản thống nhất có hiệu lực cao.
CHÍNHPHỦ
TỔNGCỤCDULỊCH
UBND THÀNHPHỐ,
TỈNH
SỞDULỊCHHOẶC
SỞTHƯƠNGMẠIVÀDULỊCH
CÁCCƠQUANCẤPBỘKH
ÁC
DN du
lịch
Nhà
nước
do TW
quản

DN du
lịch
Nhà
nước
do địa
phươn
g quản


lịch tu
nhân
Luận văn tốt nghiệp
Với 9 chương, 56 điều, Pháp lệnh Du lịch đã từng bước đi vào cuộc
sống, hướng vàđiều chế các quan hệ Việt Nam theo đường lối đổi mới của
Đảng trên cơ sở thực hiện Pháp lệnh du lịch - Du lịch Việt Nam đã thu được
nhiều thành quả to lớn. Do đó không thể không đề cập đến một số nét của
Pháp lệnh này.
Cách đây gần 1 năm Tổng cục Du lịch và bước đầu tổng kết 4 năm triển
khai Pháp lệnh du lịch đểđánh giá mặt "được" mặt "chưa được" của Pháp lệnh
và các văn bản pháp lý khác có liên quan thấy được những hạn chế, bất cập
của chúng nhằm tạo nên cơ sở pháp lý khoa học hơn, vững chắc hơn cho du
lịch - Đó là Luật Du lịch. Tham khảo kết quảđánh giá 4 năm thực hiện Pháp
lệnh cho ta một cái nhìn khái quát hơn về Du lịch Việt Nam.
2.2. Đánh giá chung sau 5 năm thực hiện Pháp lệnh du lịch
* Về việc công tác triển khai, hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Du lịch
Từ khi ban hành Pháp lệnh Du lịch đến nay Tổng cục Du lịch đã trình
Chính phủ ban hành được 5 Nghịđịnh hướng dẫn thi hành Pháp lệnh, đó là
Nghịđịnh số 39/2000/NĐ-CP ngày 24/8/2000 của Chính phủ về cơ sở lưu trú
Du lịch; Nghịđịnh số 27/2001/NĐ-CP ngày 05/6/2001 của Chính phủ về kinh
doanh lữ hành, hướng dẫn Du lịch; Nghịđịnh số 47/2001/NĐ-CP ngày
10/8/2001 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của
Thanh tra Du lịch; Nghịđịnh số 50/2002/NĐ-CP ngày 25/4/2002 của Chính
phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Du lịch và Nghịđịnh số
94/2003/NĐ-CP ngày 19/8/2003 quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch. Phối hợp với Bộ Thương mại trình
Chính phủ ban hành Nghịđịnh số 48/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính
phủ quy định về Văn phòng đại diện, Chi nhánh của thương nhân và doanh
nghiệp Du lịch Việt Nam ở trong nước, ở nước ngoài; Nghịđịnh
số45/2000/NĐ-CP ngày 06/9/2000 của Chính phủ quy định về Văn phòng

Luận văn tốt nghiệp
một số quy định của Pháp lệnh Du lịch so với Luật Doanh nghiệp, do Pháp
lệnh Du lịch ban hành trước Luật Doanh Nghiệp.
Qua theo dõi kết quả kinh doanh cho thấy, bên cạnh một số doanh
nghiệp Nhà nước hoạt động lữ hành quốc tế lâu năm vẫn giữ vai trò chủ lực
trong kinh doanh lữ hành và một số doanh nghiệp liên doanh lữ hành, các
doanh nghiệp được cấp phép mới, đặc biệt là một số công ty TNHH đã hoà
nhập nhanh vào môi trường kinh doanh lữ hành của nước ta, chủđộng nghiên
cứu, tiếp cận thị trường, góp phần mở rộng thị trường quốc tế và thu hút được
nhiều khách từ các thị trường này tới Việt Nam trong 2 năm qua.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, sự tăng nhanh chóng của các doanh
nghiệp lữ hành quốc tếđi liền với tình hình vi phạm đang có chiều hướng tăng
lên vàđa dạng hơn. Do điều kiện cấp phép rất đơn giản, dễ dàng, số lượng
doanh nghiệp lữ hành quốc tế tăng nhanh nhưng hiệu quả kinh doanh và chất
lượng dịch vụ không tăng theo tương xứng. Nhiều doanh nghiệp đăng ký kinh
doanh hoặc xin phép song trên thực tế không hoạt động do không cóđủ thực
lực, từđó phát sinh hiện tượng tiêu cực như cho người nước ngoài núp bóng,
trốn thuế, vi phạm chếđộ quản lý, báo cáo, giành giật khách giữa các công ty
lữ hành, cạnh tranh khônglành mạnh.v.v....
Ngoài ra, do một số quy định trong Pháp lệnh chưa rõ ràng liên quan
đến việc tổ chức tour Du lịch, các dịch vụ trọn gói, dịch vụ từng phần, do đó
trên thực tế, đặc biệt ở TP. Hồ Chí Minh, nhiêu doanh nghiệp thực chất kinh
doanh lữ hành quốc tế song lại đăng ký kinh doanh các dịch vụ từng phần,
trốn tránh sự quản lý của cơ quan quản lý Nhà nước về Du lịch.
Về kinh doanh đón khách Du lịch tự do (khách Du lịch lịch ba lô): Hiện
nay, xu hướng đi Du lịch tự do trên thế giới ngày càng nhiều. Trong những
năm gần đây, lượng khách Du lịch tự do vào Việt Nam ngày càng tăng.
Đểđáp ứng nhu cầu của đối tượng khách này, một số doanh nghiệp lữ hành
nội địa, đặc biệt ở TP.Hồ Chí Minh, Hà Nội, Khánh Hoàđã tổ chức phục
Luận văn tốt nghiệp

thông qua việc kết hôn với người có giấy phép nhưng thực chất không có khả
năng làm lữ hành quốc tếđã biến thành bình phong cho các tổ chức, cá nhân
không phép thông qua việc cung cấp dịch vụ visa, cho mượn danh nghĩa
thông qua các Chi nhánh, văn phòng đại diện, hoặc cho người nước ngoài vào
trực tiếp ngồi làm việc tại doanh nghiệp. Một số Văn phòng đại diện của Du
lịch nước ngoài ở Việt Nam lợi dụng cơ chế cấp phép đặt văn phòng đại diện
dễ dàng đã lợi dụng danh nghĩa văn phòng đại diện để kinh doanh Du lịch. Vì
vậy, hiện tượng núp bóng đã trở thành vấn đề nổi cộm vàđãđược nêu lên tại
một số Hội Nghịđịnh về lữ hành cũng nhưđặt ra nhiều vấn đề cho công tác
quản lý lữ hành của nước ta. Tình hình này đồng thời đòi hỏi cần có quy định
chặt chẽ hơn để khắc phục.
-Về liên doanh lữ hành quốc tế:để hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp lữ hành quốc tế Việt Nam phát triển, trước đây, Tổng cục Du lịch
đãđưa ra một sốđiều kiện nhằm hạn chế các liên doanh lữ hành quốc tế (vốn 1
triệu USD, bên Việt Nam góp 51%, thời hạn 10 năm, phía Việt Nam phải là
doanh nghiệp lữ hanh quốc tế...). Tuy nhiên, những điều kiện đó chưa được
thể hiện dưới dạng quy định pháp lý, vì vậy một số doanh nghiệp lách kẽ hở
của pháp luật, tạo ra các liên doanh lữ hành quốc tế trá hình, gâylên tình trạng
cạnh tranh khônglành mạnh trong kinh doanh lữ hành quốc tế.
* Về vận chuyển khách Du lịch:
Chính phủđã bãi bỏ giấy phép kinh doanh vận chuyển khác Du lịch;
Quyết định liên ngành số 2418/QĐ-LB ngày 04/12/1993 về quản lý vận
chuyển khách Du lịch giữa Tổng cục Du lịch và Bộ Giao thông vận tải cũng
không còn hiệu lực. Mặc dùĐiều 34 Pháp lệnh Du lịch đã quy định điều kiện
kinh doanh vận chuyển khách Du lịch nhưng chưa được cụ thể hoá bằng các
văn bản hướng dẫn thi hành, do đó vận chuyển khách Du lịch nhưô tô, tàu,
thuyền.... Các phương tiện này chỉ chịu sựđiều chỉnh chung dưới dạng
phương tiện vận chuyển hành khách công cộng. Điều này khiến công tác quản
Luận văn tốt nghiệp
lý hoạt động kinh doanh vận chuyển hành khách Du lịch gặp nhiều khó khăn;

giảm bớt yêu cầu vềđiều kiện cấp thẻđể phù hợp với thực tế.
-Công tác quản lý hướng dẫn viên Du lịch thời gian qua còn nhiều hạn
chế, tình trạng hướng dẫn viên hoạt động không có thẻ, hướng dẫn viên bị thu
thẻởđịa phương này lại về xin cấp thẻởđịa phương khác, hướng dẫn viên
không chấp hành quyết định sử phạt hành chính, thao túng gây áp lực với
doanh nghiệp..... đã xảy ra ở nhiều địa phương. Điều này một phần do các quy
định quản lý hướng dẫn viên chưa cụ thể, chặt chẽ, các biện Pháp lệnh Du
lịch chế tài chưa đủ mạnh, thêm nữa việc thông tin giữa các địa phương chưa
kịp thời và chưa bắt buộc.
-Một thực tế nữa cho thấy xu hướng hiện nay hướng dẫn viên tự do
hành nghề, không muốn ký hợp đồng dài hạn với một doanh nghiệp. Mặt
khác, nhiều doanh nghiệp lữ hành quốc tế không coi trọng việc quản lý vàđào
tạo hướng dẫn viên, sử dụng hướng dẫn viên chủ yếu theo yêu cầu vụ việc, vì
vậy quy định về việc hướng dẫn viên hoạt động phải gắn với một doanh
nghiệp lữ hành quốc tế là không còn phù hợp. Xu hướng hướng dẫn viên hành
nghề tự do là xu hướng chung trên thế giới, đòi hỏi chúng ta phải tìm ra các
biện pháp quản lý hướng dẫn viên phù hợp hơn như thông qua hiệp hội hướng
dẫn viên, ban hành quy tắc ứng xử của hướng dẫn viên.v.v....
* Về xúc tiến Du lịch, hợp tác quốc tế, đào tạo phát triển nguồn nhân
lực Du lịch:
- Về xúc tiến Du lịch: Hoạt động xúc tiến, quảng bá Du lịch trong một
số năm qua được thực hiện không chỉở cấp độ trung ương mà cảởđịa phương
và doanh nghiệp, đã góp phần quan trọng đưa hình ảnh Việt Nam ngày càng
rõ nét trên các thị trường trọng điểm của Du lịch Việt Nam. Tuy nhiên, thực
tiễn cũng cho thấy hoạt động xúc tiến , quảng bá của doanh nghiệp Du lịch
chưa có quy định điều chỉnh riêng dẫn đến một số hiện tượng không làm tăng
thêm hình ảnh Việt Nam mà chỉ nhằm mục đích giành giật khách. Điều này
đòi hỏi cần phải có quy định cụ thểđể quản lý hoạt động xúc tiến, quảng bá
Luận văn tốt nghiệp
Du lịch. Ngoài ra những vấn đề thuộc về phát triển đầu tư, xây dựng kết cấu

(hiện có 22 trường trung học chuyên nghiệp, cơ sởđào tạo nghề về Du lịch, 28
trường đại học, cao đẳng có khoa, tổ bộ môn đào tạo về lữ hành, khách sạn);
khuyến khích cá nhân tự học, tham gia các khoá bồi dưỡng ngoài giờ, du học
tự túc, bán tự túc... qua đóđã tăng một cách đáng kể cả về số lượng và chất
lượng nguồn nhân lực Du lịch.
Tuy nhiên, do chưa có chính sách cụ thể về khuyến khích đầu tư trong
lĩnh vực đào tạo phát triển nguồn nhân lực Du lịch; thực hiện xã hội hoá giáo
dục về Du lịch chưa đựoc cụ thể hoá trong Pháp lệnh; chính sách thu học phí
chưa phù hợp với thực tế vìđào tạo Du lịch đòi hỏi thực hành nhiều và tốn
kém; việc thu học phíở các cơ sởđào tạo cônglập quá thấp, trong khi đó việc
thu học phíở các trường dân lập, tư thục lại chưa có cơ chế quản lý hiệu quả;
chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục và
quản lý ngành Du lịch.
* Về quản lý cơ sở lưu trú Du lịch:
Sau khi Nghịđịnh số 39/2000/NĐ-CP và Thông tư 01/2001/TT-TCDL,
Quyết định 02/2001/QĐ-TCDL của Tổng cục Du lịch đựơc ban hành, Bộ Tài
chính ban hành Thông tư số 87/2002/TT-BTC về hướng dẫn thực hiện chếđộ
thu nộp, quản lý sử dụng phí thẩm định cơ sở lưu trú Du lịch. Tổng cục Du
lịch cũng đã làm việc với các cơ quan chức năng để giải quyết những vướng
mắc trong việc sử dụng các chương trình thu tín hiệu truyền hình từ vệ tinh
(TVRO) để thu trực tiếp các chương trình truyền hình của nước ngoài trong
cơ sở lưu trú Du lịch; tham gia cùng Bộ Kế hoạch vàĐầu tư xây dựng quy chế
quản lý trò chơi điện tử có thưởng, theo đó cho phép các cơ sở lưu trú Du lịch
cóđủ tiêu chuẩn được tổ chức kinh doanh loại hình dịch vụ này.
Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực cơ sở lưu trú Du lịch trước hết thực
hiện thông qua việc phân loại, xếp hạng cơ sở lưu trú Du lịch. Hiện nay, cả
nước có 3.761 cơ sở lưu trú Du lịch với 83.239 phòng, trong đó có 869 khách
sạn được xếp hạng từ 1-5 sao với 31.703 phòng. Số khách sạn đạt tiêu chuẩn

Trích đoạn Quá trình xâydựng Luật Những nội dung cơ bản của Luật Du lịch Tham gia các Tổ chức Hội nghị về du lịch
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status