41 luan van bao cao thực trạng hoạt động nhượng quyền thương mại ở việt nam mét sốđánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật việt nam về hợp đồng nhượng quyền thương mại - Pdf 89

Khóa luận tốt nghiệp 1 Nguyễn Thu Trang – KT 29D
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Nhượng quyền thương mại là phương thức kinh doanh đang phổ biến và lan rộng
khắp nơi trên thế giới. Theo thống kê năm 2001, tại Mỹ có khoảng 800.000 cơ sở
kinh doanh theo phương thức franchise với hơn 10 triệu nhân công và 625 tỷ USD
doanh số. Vào năm 1999, tại Trung Quốc có 974 bên nhượng franchise với khoảng
14.000 cơ sở kinh doanh nhận franchise đạt doanh số chiếm 4,5 % tổng doanh số
bán hàng toàn quốc. Trong hai năm 2002 và 2003 số nhận franchise là 70.000,
doanh số bán hàng của các cơ sở này chiếm 7,8% doanh số toàn quốc [5].
Với đà tăng trưởng 20%/năm hiện nay, Việt Nam có tiềm năng để trở thành thị
trường hấp dẫn cho NQTM, chắc chắn số lượng hệ thống nhượng quyền ở Việt
Nam không chỉ dừng lại ở con sè 70 như bây giê mà sẽ còn mở rộng hơn nữa đặc
biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Để có thể hội nhập thành công một điều kiện
tiên quyết đối với các doanh nghiệp Việt Nam là cần tìm hiểu, nghiên cứu các thuận
lợi và thách thức của hệ thống kinh doanh đặc thù này trước khi quyết định kí kết
hợp đồng để tham gia mô hình kinh doanh nhượng quyền thương mại.
Hợp đồng nhượng quyền thương mại là hình thức pháp lý thực hiện hoạt động
nhượng quyền thương mại, là căn cứ pháp luật quan trọng nhất và cũng là căn cứ
hợp tác kinh doanh của hai bên, đó là cơ sở làm phát sinh quyền và nghĩa vụ các
bên đồng thời là căn cứ giải quyết tranh chấp giữa các bên. Mặt khác đó cũng là cơ
sở để nhà nước có thể quản lý hoạt động nhượng quyền trên lãnh thổ Việt Nam, có
thể nói hợp đồng nhượng quyền thương mại đóng vai trò rất quan trọng trong quan
hệ nhượng quyền giữa các chủ thể. Chính vì vậy việc nghiên cứu “Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam” rất cần thiết
và quan trọng, có ý nghĩa sâu sắc về cả mặt lý luận và thực tiễn
2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu của đề tài
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thu Trang – KT 29D
Đề tài nghiên cứu một số vấn đề lý luận về nhượng quyền thương mại nói chung và
hợp đồng nhượng quyền thương mại nói riêng, đồng thời nghiên cứu một số nét cơ
bản về hệ thống pháp luật Việt Nam về hợp đồng nhượng quyền thương mại, kết

quyền hạn và quyền tự do để thay mặt nhà nước điều hành triển khai các luật lệ tại
mét sè các lãnh thổ nhất định. Khái niệm trao quyền này sau đó được áp dụng trong
ngành kinh doanh và khu vực kinh tế tư nhân.
Trước thế chiến thứ 2, NQTM phát triển ồ ạt trong các trạm xăng dầu và
gara buôn bán xe hơi, về thực chất đây chỉ là hình thức nhượng quyền phân phối
sản phẩm, các đại lý xăng dầu hay gara xe hơi được cấp giấy phép dưới tên một
thương hiệu nào đó tuy nhiên họ không phải trả khoản phí nhượng quyền nào.
Điều kiện duy nhất để các đại lý được hoạt động là phải mua sản phẩm độc quyền
cung cấp bởi chủ thương hiệu mà thôi.
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, mô hình kinh doanh này mới thật sự bùng nổ
và trở nên phổ biến đặc biệt đối với các mặt hàng dich vụ bán lẻ, phân phối, nhà
hàng, chuỗi khách sạn. Phương thức nhân rộng mô hình kinh doanh này phát triển
mạnh nhất ở Mỹ từ khoảng thập niên 90, vào năm 1994, 35% của tổng doanh số
bán lẻ tại Mỹ là từ các cửa hàng nhượng quyền. Theo số liệu thống kê năm 2001 có
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thu Trang – KT 29D
khoảng 800.000 cở sở kinh doanh NQTM, hoạt động nhượng quyền tạo ra gần 10
triệu chỗ làm và chiếm đến 7.4% tổng lực lượng lao động, chiếm 5% tổng số tiền
lương trong khối kinh tÕ tư nhân. Khối lượng hàng hóa và dịch vụ mà lĩnh vực này
tạo ra hàng năm là khoảng 630 tỷ USD, chiếm 3.9% tổng số lượng hàng hóa, dịch
vô trong khu vực kinh tế tư nhân Hoa Kỳ (nguồn: nghiên cứu tác động kinh tế của
hoạt động NQTM - thực hiện bởi quỹ giáo dục hiệp hội nhượng quyền quốc tế
IFA). Ngày nay, một số tiểu bang của Mỹ đã có luật bắt buộc bất kỳ công ty tư
nhân nào muốn tham gia thị trường chứng khoán phải có đăng kí nhượng quyền.
Khái niệm NQTM mới xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1990 và đến nay có
khoảng 70 hệ thống nhượng quyền nhưng hoạt động này đã từng bước khẳng định
vai trò của mình đối với sự phát triển kinh tế VN. Giờ đây người tiêu dùng đã quen
thuộc với các thương hiệu nổi tiếng trên thế giới như KFC, DIMAL, QUALITEA,
cho đến nay mét sè thương nhân VN đã kinh doanh khá thành công theo mô hình
này (điển hình là cà phê Trung Nguyên, Phở 24 và bakerry Kinh Đô), và các doanh
nghiệp có tiềm năng khác cũng đang khẩn trương chuẩn bị để chuyển nhượng

phương thức, phương pháp kinh doanh do bên giao sở hữu hoặc kiểm soát và bên
nhận quyền đang và sẽ tiến hành đầu tư đáng kể vốn vào doanh nghiệp bằng nguồn
lực của mình”[5]. Theo định nghĩa này vai trò của bên nhận quyền kinh doanh
trong việc đầu tư vốn và điều hành doanh nghiệp được đặc biệt nhấn mạnh hơn so
với trách nhiệm của bên giao quyền.
Liên minh Châu Âu định nghĩa: “NQTM là tập hợp những quyền sở hữu
công nghiệp và sở hữu trí tuệ liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại,
biển hiệu cửa hàng, giải pháp hữu Ých, kiểu dáng, bí quyết hoặc sáng chế sẽ được
khai thác để bán sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ tới người sử dụng cuối cùng”[5].
Nh vậy có thể thÊy cách tiếp cận của liên minh Châu Âu là việc nhấn mạnh quyền
của bên nhận quyền khi sử dụng tập hợp các quyền sở hữu trí tuệ
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thu Trang – KT 29D
Định nghĩa của Australia là định nghĩa khá toàn diện về NQTM, ngoài việc
chỉ ra các đặc điểm đặc trưng khái quát lên bản chất của NQTM còn chỉ ra được
một quy trình khá chi tiết và đầy đủ của hoạt động NQTM. Định nghĩa đó như
sau[5]: “NQTM là mét thỏa thuận một bên (bên nhượng quyền) cấp cho bên khác
(bên nhận quyền) quyền thực hiện hoạt động đề nghị giao kết hợp đồng, cung cấp
hoặc phân phối hàng hóa hàng hóa hoặc dịch vô trong lãnh thổ Australia theo hệ
thống hoặc kế hoạch kinh doanh mà cơ bản được xác định kiểm soát hoặc đề xuất
bởi bên nhượng quyền, theo đó: Việc tiến hành hoạt động kinh doanh được chủ yếu
gắn liền với thương hiệu, hoạt động quảng cáo hoặc biểu tượng thương mại của bên
nhượng quyền. Trước khi bắt đầu kinh doanh và trong qúa trình kinh doanh, bên
nhận quyền phải thanh toán cho bên nhượng quyền một khoản phí NQTM
Đối với Việt Nam khái niệm nhượng quyền thương mại lần đầu tiên được
đề cập đến trong pháp luật tại Đ284 luật thương mại 2005, theo quan điểm các nhà
làm luật thì: “NQTM là hoạt động thượng mại theo đó bên nhượng quyền cho phép
và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vô theo các điều kiện sau:
1. Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ
chức do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên

như quyền sử dụng các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp (nhãn hiệu hàng
hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, bí quyết kỹ thuật...), quyền kinh doanh
theo hệ thống vận hành với phương thức quản lý, tiếp thị, đào tạo của bên nhượng
quyền.
Thứ ba là mối quan hệ hỗ trợ mật thiết giữa bên nhượng quyền và bên nhận
quyền. Bên nhận quyền sử dông nhãn hiệu hàng hóa, bí quyết kinh doanh của bên
nhận quyền để sản xuất, phân phối hàng hóa và cung ứng dịch vụ, đồng thời còn
nhận được sự giúp đỡ về mặt kỹ thuật, đào tạo của bên nhượng quyền trong quá
trình kinh doanh theo hợp đồng NQTM. Chính vì vậy bên nhượng quyền luôn có
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thu Trang – KT 29D
quyền kiểm soát đối với hoạt động kinh doanh của bên nhận quyền để đảm bảo tính
đồng bộ cho toàn hệ thống nhượng quyền. Ngược lại, bên nhận quyền khi tham gia
vào mạng lưới kinh doanh nhượng quyền sẽ phải trả cho bên nhượng quyền các
khoản tiền cho việc sử dụng đối tượng NQTM để kinh doanh cũng như các khoản
tiÒn cho các công việc đào tạo, hỗ trợ mà mình nhận được.
Trên đây chỉ là một số đặc điểm cơ bản của nhượng quyền thương mại, tùy
theo từng hình thức nhượng quyền cụ thể mà quan hệ nhượng quyền thương mại
còn có thể có các đặc điểm khác.
c. phân loại NQTM
Theo thông lệ quốc tế, nếu căn cứ vào phạm vi, tính chất của quan hệ nhượng
quyền thì NQTM sẽ được chia thành nhượng quyền sản xuất, nhượng quyền phân
phối sản phẩm và nhượng quyền phương pháp kinh doanh.
Thứ nhất, nhượng quyền sản xuất: Đây là loại hình NQTM theo đó bên
nhận được sử dụng các nguyên liệu đặc thù và có thể là bí quyết kinh doanh để thực
hiện việc sản xuất và phân phối sản phẩm dưới tên thương mại và nhãn hiệu của
bên giao. Bên giao quyền chỉ cung cấp các nguyên liệu đặc thù, các bí quyết kỹ
thuật và cấp lisence quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ cho bên nhận để
tiến hành kinh doanh.
Thứ hai, nhượng quyền phân phối: Đây là loại hình NQTM đơn giản nhất,
mà mối quan hệ giữa hai bên chủ thể (bên giao và bên nhận quyền) thực chất là

các lĩnh vực khách sạn, nhà hàng ăn uống.
Có thể nói đây là ba hình thức nhượng quyền cơ bản nhất, từ đây có thể
phát triển thành nhiều hình thức nhượng quyền khác. Phụ thuộc vào điều kiện, hoàn
cảnh của mình mà các bên chọn ra hình thức nhượng quyền thương mại phù hợp để
kinh doanh
d. ý nghĩa của NQTM
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thu Trang – KT 29D
Hoạt động NQTM ngày càng phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới
là một thực tế cho thấy đã là mô hình kinh doanh rất thành công và được các
thương nhân lùa chọn. Đây là phương thức kinh doanh không chỉ mang lại lợi Ých
cho các bên tham gia mà còn có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế quốc gia còng
nh thế giới.
*) Đối với bên nhượng quyền:
Lợi Ých đầu tiên mà bên nhượng quyền nhận được khi kinh doanh NQTM
là nhân rộng mô hình kinh doanh mà không cần bỏ ra nhiều chi phí. Đây là điều mà
bất kì thương nhân nào cũng mong muốn bởi lẽ khi mô hình kinh doanh được nhân
rộng đồng nghĩa với thương hiệu của mình sẽ mạnh lên, có chỗ đứng trên thị trường
và tăng khả năng cạnh tranh với các thương hiệu khác. Đối với một thương nhân
không kinh doanh theo mô hình NQTM thì điều này rất khó khăn bởi chủ thương
hiệu sẽ phải tự bỏ ra các khoản chi phí để xây dựng hệ thống cửa hàng của mình,
phải tìm hiểu phong tục tập quán địa phương nơi mình định đặt cửa hàng để cã
hướng kinh doanh phù hợp, phải tổ chức quản lí một cách đồng bé hệ thống kinh
doanh nhượng quyền. Tuy nhiên với những thương nhân kinh doanh NQTM thì
những vấn đề trên không còn là trở ngại, đây chính là lợi Ých lớn nhất mà nên
nhượng quyền nhận được khi kinh doanh theo phương thức này.
Khi thực hiện NQTM bên nhượng quyền sẽ nhận được các khoản phí từ
bên nhận quyền, các khoản phí này bao gồm phí nhượng quyền ban đầu, phí hàng
tháng và các loại phí khác, đây là một nguồn thu rất lớn đối với bên nhượng quyền,
thương hiệu càng mạnh thì các khoản phí này càng cao. Nh vậy, ngoài doanh thu từ
hoạt động kinh doanh của mình bên nhượng quyền còn được hưởng mét khoản tiền

của mét sản phẩm đã có thương hiệu thì khá an tâm vì coi nh họ đã chắc chắn có
một lượng khách hàng nhất định.
Khi kinh doanh NQTM bên nhận quyền sẽ giảm thiểu được nhiều rủi ro
trong kinh doanh. Bên nhận quyền sẽ nhận được sự giúp đỡ từ bên nhượng quyền
không chỉ trước trước mà cả sau khi cửa hàng nhượng quyền được khai trương về
các vấn đề như quảng cáo, tiếp thị, đào tạo nhân viên. Mặt khác các thương hiệu
được chuyển nhượng thường đã được bảo hộ sẵn, như vậy bên nhận quyền không
phải mất phí bảo hộ (một khoản phí không nhỏ) như các thương nhân kinh doanh
độc lập khác và còng không lo bị khiếu kiện liên quan đến vấn đề bảo hộ. Không
chỉ vậy, bên nhận quyền còn được học hái kinh nghiệm quản lý, được tiếp nhận các
thiết bị khoa học kỹ thuật tiên tiến từ bên nhượng quyền. So với các thương nhân
kinh doanh độc lập thì đây là những nguồn lợi rất lớn của thương nhân kinh doanh
NQTM.
*) Đối với nền kinh tế:
NQTM là phương thức kinh doanh không chỉ có ý nghĩa đối với các bên
chủ thể mà còn tác động rất lớn đến nền kinh tế. Ngay từ khi hình thành, NQTM đã
chứng minh vai trò quan trọng của mình trong việc đẩy mạnh sản xuất, tăng nguồn
thu cho nền kinh tế, thóc đẩy quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế trên
thế giới.
Theo ước tính, doanh thu từ kinh doanh NQTM trên thế giới năm 2002 là
1.000 tỷ USD với khoảng 32.000 doanh nghiệp từ 75 ngành khác nhau và con số
này không chỉ dừng lại ở đây. ở Anh và Mỹ, doanh thu từ hoạt động kinh doanh
này là một trong những hoạt động tăng trưởng nhanh nhất của nền kinh tế, hoạt
động này còng thu hót lượng đông đảo lao động, giúp giải quyết tình trạng thất
nghiệp trong xã hội.
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thu Trang – KT 29D
Albert Kong - diễn giả quốc tế về NQTM trong một cuộc hội thảo đã ví
NQTM nh là hình thức “nhân bản vô tính” trong kinh doanh, cách so sánh này xuất
phát từ đặc tính nổi bật của mô hình kinh doanh NQTM là sù đồng bộ. Chính đặc
điểm này làm cho NQTM trở thành phương thức kinh doanh có lợi cho người tiêu

Thứ nhất, đối tượng hợp đồng NQTM rộng hơn so với hợp đồng lisence,
ngoài các đối tượng quyền SHTT nó còn gồm các đối tượng khác nh phương pháp
kinh doanh, chỉ dẫn, quy tắc, tiêu chuẩn về chất lượng và kỹ thuật.
Thứ hai, bên nhận chuyển giao lisence ngoài việc sử dụng đối tượng SHTT
của bên chuyển giao thì không còn mối quan hệ nào với chủ thể giao lisence.
Ngược lại, trong hợp đồng NQTM mối quan hệ giữa các chủ thể rất chặt chẽ, bên
nhận quyền phải tuân theo các quy định tiêu chuẩn kỹ thuật do bên nhượng quyền
đặt ra đồng thời phải chịu sự kiểm soát của bên nhượng quyền. Đổi lại, bên nhượng
quyền có nghĩa vụ giúp đỡ, hỗ trợ cho bên nhận quyền trong suốt thời hạn có hiệu
lực của hợp đồng.
Thứ ba, về vấn đề phí: phí trong hợp đồng lisence là phí trả cho từng đối
tượng lisence cụ thể, còn phí trong hợp đồng NQTM chính là khoản tiền trả cho
việc sử dụng tổng hợp mọi quyền SHTT được giao bởi bên nhượng quyền.
Điểm khác biệt nữa là trong hợp đồng NQTM bên nhượng quyền cho phép
bên nhận quyền được tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh theo những cách
thức của bên nhượng quyền để sản xuất, kinh doanh. Nhưng với hợp đồng lisence
bên nhận chuyển giao chỉ được quyền sử dụng các đối tượng SHTT để tiến hành
kinh doanh và không nhận được bất kỳ sự trợ giúp nào từ bên chuyển giao lisence.
b. NQTM và chuyển giao công nghệ
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thu Trang – KT 29D
Chuyển giao công nghệ là việc chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử
dụng một phần hoặc toàn bộ công nghê từ bên có quyền chuyển giao công nghệ
sang bên nhận công nghệ. Như vậy giữa NQTM và CGCN có đặc điểm chung
chính là ở nội dung chuyển giao quy trình kỹ thuật và bí quyết kinh doanh, vì thế
giữa hai phương thức này nhiều khi vẫn có sù nhầm lẫn, Tuy nhiên đây là hai hình
thức kinh doanh khác nhau về bản chất, trong chuyển giao công nghệ, bên có quyển
chuyển giao có thể chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng công nghệ,
nhưng trong hợp đồng NQTM, đối tượng chuyển giao chỉ có thể là quyền sử dụng
các đối tượng sở hữu trí tuệ. Mặt khác, khi tham gia quan hệ chuyển giao công
nghệ, bên nhận chuyển giao chỉ nhằm mục đích ứng dụng nó vào quá trình sản xuất

bên nhận quyền trong NQTM muốn than gia vào mạng lưới nhượng quyền phải trả
cho bên nhượng quyền khoản phí ban đầu để mua "quyền thương mại", đồng thời
trong suốt qúa trình kinh doanh, bên nhận quyền còn phải đóng các khoản phí hàng
tháng để tiếp tục duy trì sử dụng các đối tượng SHTT.
Một điểm phân biệt khá quan trọng giữa NQTM và đại lý thương mại chính
là cách bài trí cửa hàng. Đối với các cửa hàng nhượng quyền bên nhận quyền bắt
buộc phải bố trí thiết kế cửa hàng theo đúng quy định của bên nhượng quyền.
Nhưng với các cửa hàng đại lý, bên nhận đại lý được toàn quyền quyết định việc
bài trí cửa hàng, không chịu bất kỳ sức Ðp nào từ bên giao đại lý.
1.2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG NQTM
Khi tìm hiểu pháp luật điều chỉnh về một hợp đồng thương mại, thông thường sẽ
nghiên cứu theo các tiêu chí về chủ thể, hình thức, nội dung của hợp đồng đó. Vì
vậy để thuận tiện cho việc tìm hiểu nội dung pháp luật về hợp đồng NQTM chóng
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thu Trang – KT 29D
ta cũng sẽ đi theo các tiêu chí này, sau đây sẽ là các quy định cụ thể về các vấn đề
pháp lý của hợp đồng NQTM theo thông lệ quốc tế.
1.2.1.Pháp luật về chủ thể hợp đồng NQTM
Chủ thể hợp đồng NQTM chính là các bên tham gia hợp đồng gồm bên
nhượng quyền và bên nhận quyền, tuy nhiên trong nhiều trường hợp nếu được bên
nhượng quyền chấp nhận thì bên nhận quyền có thể chuyển nhượng quyền thương
mại cho bên thứ ba, khi đó bên nhận quyền trở thành bên nhượng quyền và bên thứ
ba trở thành bên nhận quyền trong quan hệ nhượng quyền mới nay (gọi là nhượng
quyền thứ cấp), bên thứ 3 sẽ có các quyền và nghĩa vô nh bên nhận quyền ban đầu.
Muốn trở thành chủ thể hợp đồng NQTM, các bên phải đáp ứng điều kiện
theo quy định pháp luật. Các quốc gia trên trên thế giới cã quy định khác nhau về
vấn này tuy nhiên hầu hết đều có quy định chung là chủ thể hợp đồng NQTM phải
là thương nhân, có đăng kí kinh doanh. Ngoài các điều kiện chung pháp luật mét sè
nước còn có các quy định khác nh thời gian hoạt động tối thiểu, khả năng tài chính
các bên.
NQTM là mô hình kinh doanh theo hệ thống đồng bộ, vì vậy giữa các chủ

vấn đề đặt ra là bên nào sẽ chịu trách nhiệm trước khách hàng về sản phẩm, dịch vụ
đó, bên nhận hay bên nhượng quyền. Để bảo vệ lợi Ých của người tiêu dùng, pháp
luật các nước hầu hết đều quy định về vấn đề này, tuy nhiên cách quy định của mỗi
quốc gia là khác nhau. Theo một số nước thì vì bên nhận quyền và bên nhượng
quyền là hai pháp nhân độc lập nên không đặt ra vấn đề chịu trách nhiệm liên đới
giữa hai bên mà trách nhiệm thuộc về bên nào tùy thỏa thuận các bên. Bên cạnh đó,
mét số quốc gia khác lại quy định các bên phải chịu trách nhiệm liên đới trước
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thu Trang – KT 29D
khách hàng bởi đặc thù kinh doanh NQTM là tính hệ thống và đồng bộ. Mặc dù các
quy định khác nhau nhưng lợi Ých người tiêu dùng sẽ luôn được các quốc gia bảo
vệ dù pháp luật nước đó có quy định về trách nhiệm liên đới giữa các bên hay
không.
1.2.2. Pháp luật về hình thức hợp đồng NQTM :
Trong hợp đồng NQTM, điều quan trọng nằm ở nội dung hợp đồng, đã là
căn cứ để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ và cũng là cơ sở giải quyết tranh
chấp, vì vậy nó phải được thể hiện dưới hình thức khoa học, dễ hiểu nhất. Về vấn
đề này các quốc gia trên thế giới có quy định khác nhau, theo mét sè nước có nền
kinh tế phát triển thì hợp đồng NQTM có thể thể hiện dưới nhiều hình thức như
bằng văn bản, lời nói hoặc một thỏa thuận ngầm nhất định, quy định như vậy nhằm
đảm bảo tối đa quyền tự do thỏa thuận của các chủ thể trong hợp đồng. Tuy nhiên
các nước đang phát triển lại có quan điểm khác, theo họ hợp đồng NQTM bắt buộc
phải thể hiện dưới hình thức văn bản, vì như vậy mới có thể ghi nhận quyền và
nghĩa vụ các bên và đảm bảo khả năng quản lý của nhà nước với hoạt động NQTM.
1.2.3. Pháp luật về nội dung hợp đồng NQTM
a. Pháp luật điều chỉnh đối tượng hợp đồng:
Đối tượng hợp đồng NQTM là "quyền thương mại" – là tập hợp tất cả các
quyền năng của chủ thương hiệu đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp nh nhãn
hiệu hàng hóa, bí quyết kinh doanh, tên thương mại. Ngoài ra để giá trị quyền
thương mại được nâng lên thì đối tượng NQTM còn có thể chứa đựng thêm mét số
quyền năng khác nh quyền được cấp quyền thương mại chung, quyền phát triển hệ

chính là khoản phí để đào tạo, chuyển giao công thức cho bên nhận quyền, loại phí
này thường chỉ được tính một lần. Phí hàng tháng là loại phí mà bên nhận quyền
phải trả cho việc duy trì và sử dụng nhãn hiệu, thương hiệu của bên nhượng quyền
và những dich vụ hỗ trợ mang tính tiếp diễn liên tục như đào tạo, huấn luyện nhân
viên, tiếp thị, nghiên cứu phát triển, sản phẩm mới, phí này có thể là một khoản cố
định hoặc được tính theo % doanh số bên nhận quyền. Ngoài ra bên nhượng quyền
còn nhận được một sè khoản phí khác nh phí quảng cáo, tiếp thị, tiền thuê tài sản,
các khoản phí này rất đa dạng và có thể phát sinh trong bất kỳ lĩnh vực nào liên
quan đến NQTM.
*) Thời hạn, gia hạn hợp đồng:
Thời hạn hợp đồng là khoảng thời gian tính từ khi hợp đồng có hiệu lực đến khi
chấm dứt hợp đồng, thời hạn này do các bên thỏa thuận phù hợp với mục đích và
hoàn cảnh các bên và các quy định pháp luật. Tuy pháp luật các nước không quy
định trực tiếp thời hạn hợp đồng là bao lâu nhưng một sè quốc gia có quy định thời
hạn tối thiểu của hợp đồng nh Mỹ là 5 năm, Trung Quốc là 3 năm.
Trong thời hạn hợp đồng hoặc khi hợp đồng hết hạn các bên có thể thoả thuận gia
hạn hợp đồng, thời hạn gia hạn cũng do các bên thỏa thuận phù hợp điều kiện hoàn
cảnh của mình.
*) Thay đổi hợp đồng:
Trong kinh doanh không ai có thể lường trước được những thay đổi về việc kinh
doanh của mình. Mặt khác những thay đổi đó không chỉ lần một, lần hai mà có thể
rất nhiều lần, trong những trường hợp đó các bên không thể cùng nhau thỏa thuận
soạn thảo lại một hợp đồng mới. Vì vậy thay đổi hợp đồng được đặt ra như một giải
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thu Trang – KT 29D
pháp toàn diện, các bên có thể sửa đổi các điều kiện không còn phù hợp trong hợp
đồng mà không cần hủy bỏ hợp đồng gốc Êy, điều này được hầu như các quốc gia
ủng hộ và quy định. Khi hợp đồng thay đổi thì quyền và nghĩa vụ các bên cũng thay
đổi tùy thuộc vào sự thay đổi của hợp đồng.
*) Tạm dừng hợp đồng:
Trong nhiều trường hợp, do có lÝ do chính đáng mà một hoặc hai bên không thể

là điều rất quan trọng. Bên nhượng quyền phải cung cấp các thông tin về hoạt động
nhượng quyền của mình để bên nhận quyền có quyÕt định đúng trong việc mua
“quyền thương mại”. Mặt khác, cũng giúp cơ quan nhà nước có thể quản lý, kiểm
soát được hoạt động NQTM một cách dễ dàng, thuận lợi hơn.
Trên đây là một số vấn đề cơ bản khái quát về hợp đồng NQTM, sang chương 2
chóng ta sẽ nghiên cứu cụ thể các quy định của pháp luật một số nước và Việt Nam
về hợp đồng NQTM.

Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thu Trang – KT 29D
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG
MẠI VIỆT Nam VÀ KINH NGHIỆM PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
2.1. PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI MÉT SỐ
NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI:
2.1.1. Pháp luật Mỹ về hợp đồng NQTM
Hoạt động NQTM ở Mỹ được điều chỉnh bởi Quy chế về công bố thông tin,
các điều cấm trong NQTM và các cơ hội kinh doanh NQTM của ủy ban thương mại
liên bang Hoa Kỳ năm 1979. Quy chế này quy định các thông tin bắt buộc mà bên
nhượng quyền phải cung cấp cho bên nhận quyền thông qua tài liệu công
bố(UFOC). Một tài liệu UFOC chuẩn tại Mỹ có 23 hạng mục thông tin cập nhật
nhất về bên nhượng quyền và gần như tất cả điÒu kiện chính của một hợp đồng
NQTM, bên nhận quyền sẽ rà soát từng hạng mục và sau đó góp ý xem hạng mục
nào nên hay có thể chỉnh sửa. Tuy nhiên có nhiều hạng mục gần như không thể
đàm phán được như khoản phí ban đầu, phí hàng tháng, do đó bên nhận quyền phải
ý thức được điều này khi đàm phán. Đi kèm tài liệu UFOC thường có đính kèm một
bản hợp đồng mẫu cho các bên tham khảo, tài liệu UFOC thường chỉ ra hạng mục
chi tiết mà bên nhượng quyền phải công bố cho các bên dự định nhận quyền và
phải được trao cho bên nhận quyền trước khi hợp đồng. Pháp luật Mỹ quy định bên
nhượng quyền bắt buộc phải cung cấp tài liệu UFOC cho bên dự định nhận quyền
ngay trong lần gặp gỡ đầu tiên hoặc chậm nhất là 10 ngày trước khi ký hợp đồng
hay trả phí nhượng quyền. Nếu việc này không được thực hiện đúng, bên nhượng

hợp đồng, cung cấp hoặc phân phối hàng hóa, dịch vụ trong lãnh thổ Australia theo

Trích đoạn Phỏp luật Australia về hợp đồngNQTM Chủ thể hợp đồng NQTM: Về quyền và nghĩa vụ cỏc bờn:
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status