Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Thực trạng, giải pháp phát triển ngành công nghiệp đóng tàu biển và vai trò của ngành này trong chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam những năm gần đây” doc - Pdf 90



- - - [ 

\ - - -

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP Thực trạng, giải pháp phát triển
ngành công nghiệp đóng tàu biển và
vai trò của ngành này trong chuyên
chở hàng hoá xuất nhập khẩu của
Việt Nam những năm gần đây
Trần Thị Hồng Bích – A7K38B 1
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia biển, có một nửa biên giới giáp với biển từ
phía Đông, Nam và Tây Nam bao gồm 3.260km bờ biển từ Bắc vào Nam
với nhiều vị trí phù hợp cho sự hình thành và phát triển một hệ thống cảng
biển hiện đại. Đây là những tiềm năng to lớn mang tính chất chiến lược để
chúng ta đẩy mạnh phát triển kinh tế biển.
Vị trí n

Nam những năm gần đây
Chương III. Chiến lược, giải pháp phát triển ngành công nghiệp đóng tàu
biển Việt Nam và nâng cao hiệu quả của ngành này trong chuyên chở hàng
hoá xuất nhập khẩu
Thực hiện nội dung trên, tác giả khoá luận đã sử dụng các phươ
ng
pháp nghiên cứu như: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
phương pháp phân tích tổng hợp, phân tích thống kê, đối chiếu, so sánh các
số liệu, tài liệu, tư liệu thu thập được để làm sáng tỏ và giải quyết các yêu
cầu mà đề tài đặt ra.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị công tác tại Cục
hàng hải Việt Nam và Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam đã tạo
điều kiện giúp đỡ trong vi
ệc thu thập tài liệu; xin chân thành cảm ơn tập
thể các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại thương đã truyền thụ những
kiến thức bổ ích về chuyên môn nghiệp vụ; và đặc biệt là sự tận tình chỉ
bảo và giúp đỡ của thầy Tô Trọng Nghiệp - giáo viên bộ môn Kinh tế
Ngoại Thương - người đã trực tiếp hướng dẫn tác giả hoàn thành tốt khoá
luận này.

Hà Nội tháng 12/2003
Trần Thị Hồng Bích – A7K38B 3

CHƯƠNG I

tạo, nghiên cứu thiết kế, thực nghiệm và giám định chất lượng đến chế tạo
sản phẩm. Đây là những nhân tố để có thể tạo nên sự phát triển và bước
những bước tiến mới của công nghiệp đóng tàu biển .
Công nghiệp đóng tàu biển là ngành công nghiệp đã được thử thách
và đã tích lu
ỹ được kinh nghiệm sản xuất nhất định. Trong nhiều năm qua,
đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, với những biện pháp và hình
thức công nghệ khác nhau, ngành đã tạo ra những sản phẩm sửa chữa và
đóng mới các loại phương tiện, thiết bị tàu thuỷ ngày càng có giá trị và
chất lượng cao, thay thế được một phần hàng hoá nhập khẩu.
Ngành công nghiệp
đóng tàu biển Việt Nam là một ngành đóng tàu
biển tổng hợp, một ngành công nghiệp mũi nhọn thúc đẩy quá trình công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp đóng tàu biển sử dụng
sản phẩm của hầu hết các ngành công nghiệp khác như: luyện kim chế tạo
máy, hoá chất, điện, điện tử, vật liệu… Như vậy nếu đóng một con tàu,
ngoài việc sử d
ụng hàng vạn công nhân của ngành còn phải cần đến lực
lượng lớn hơn của các ngành khác phục vụ vệ tinh cho nó.
Theo dự báo nhu cầu về phương tiện thuỷ của các ngành và mức độ
tăng trưởng về cơ sở vật chất của các nhà máy đóng sửa chữa tàu, từ nay
đến năm 2010 chúng ta có khả năng tạo ra một khối lượng hàng hoá đóng
mới và sửa chữa đạt hàng tỷ
USD, trong đó công nghiệp tàu thuỷ phải sử
dụng hơn 70% giá trị các sản phẩm của các ngành khác trong và ngoài
nước.
Trần Thị Hồng Bích – A7K38B 5

kỹ thuật cao. Để đáp ứng được yêu cầu đó phải có một ngành công nghiệp
mang tính hậu cần, đáp ứng yêu cầu làm chủ, tiến tới cung ứng và đổi mới
được những trang bị kỹ thuật cần có, đó là ngành công nghiệp đóng tàu
biển.
2.1.2. Công nghiệp đóng tàu biển là một ngành công nghiệp lớn,
một ngành công nghiệp góp phần tạo nên thị trường cho các ngành
công nghiệp khác
Công nghiệp đóng tàu bi
ển là ngành công nghiệp tổng hợp, sử dụng
sản phẩm của nhiều ngành công nghiệp khác. Đồng thời, với tư cách là
một ngành công nghiệp liên ngành chế tạo cơ khí, một khi đã phát triển,
công nghiệp đóng tàu biển sẽ lại có khả năng trang bị và cung ứng kỹ thuật
cũng như chia sẻ nhu cầu thị trường với các ngành công nghiệp khác như
chế tạo các cấu kiện thép lớn c
ủa giàn khoan biển, các lò xi măng, dầm cầu
lớn, các tổ hợp kết cấu thép mà các ngành cơ khí lắp ráp khác khó có điều
kiện thực hiện được.
2.1.3. Công nghiệp đóng tàu biển là ngành công nghiệp chiến lược
trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
Công nghiệp đóng tàu biển tạo nên các đội tàu hoạt động ven biển, hải
đảo, nối hai vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long, đặc biệt n
ối
các vùng kinh tế quan trọng của đất nước: Bắc có tam giác tăng trưởng Hà
Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh, Trung có trục tăng trưởng Huế-Đà Nẵng-
Dung Quất; Nam có tam giác tăng trưởngthành phố Hồ Chí Minh-Vũng
Tàu-Biên Hoà; nối các vùng sâu, vùng xa trong chiến lược phát triển kinh
tế của đất nước. Công nghiệp đóng tàu biển đóng vai trò quan trọng trong
Trần Thị Hồng Bích – A7K38B 8
ta, ngành giao thông vận tải đã nhanh chóng nắm bắt những quan điểm,
chủ trương mới của Đảng vận dụng triển khai vào trong ngành với những
chương trình hành động đồng bộ. Những năm tiếp theo, dưới ánh sáng của
các Nghị quyết Đại Hội VII, VII ngành giao thông vận tải tiếp tục đổi mới,
xây dựng, phát triển. Sự đóng góp của ngành giao thông đối với xã hội đã
khẳng đị
nh vị trí của ngành trong quá trình phát triển, xây dựng đất nước.
Trong đó có sự đóng góp đáng kể của công nghiệp đóng tàu biển Việt
Nam.
2.2.1. Đối với tăng trưởng kinh tế
Bằng việc tạo ra được những sản phẩm có tính năng kỹ thuật cao như
tàu vận tải 6.500T, tàu cao tốc, tàu chuyên dụng, sửa chữa được 70% số
tấn tàu biển ở trong nước và nhiều tàu nước ngoài, đã hình thành liên
doanh đóng tàu biển lớn với Hàn Quốc…, ngành công nghiệp đóng tàu
biển Việt Nam góp phần làm thay đổi diện mạo nền công nghiệp nước nhà
với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trên 13% (kể từ 1995 đến nay).
Trong cơ cấu đội tàu chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu, đội tàu chở
xăng dầu, số phương tiện được đóng ở trong nước ngày càng được tăng
lên, thay thế cho phương tiệ
n thuê, mua của nước ngoài. Điều này giúp
quốc gia tiết kiệm được một lượng ngoại tệ đáng kể.
2.2.2. Đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Việc phát triển công nghiệp đóng tàu biển đã mang lại hiệu quả tích
cực trong việc thực hiện Nghị quyết TW8 cũng như dự thảo nghị quyết
TW9 đề ra về chuyển dịch cơ cấ
u kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngành công nghiệp đóng và sửa chữa tàu

Trần Thị Hồng Bích – A7K38B 10
II. Vài nét về quá trình phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu biển
Việt Nam từ 1955 đến 1990
Trong các loại hình vận tải, vận tải thuỷ là loại hình vận tải kinh tế nhất
vì vậy các quốc gia có ưu thế về đường sông biển đều muốn phát triển loại
hình vận tải này. Việt Nam từ bao đời nay là một quốc gia biển. Đảng,
Chính phủ luôn chú trọng phát triển vận tải thuỷ. Và để phát triể
n vận tải
thuỷ khâu then chốt là phải phát triển các phương tiện vận tải. Quá trình
phát triển các loại phương tiện vận tải thuỷ gắn liền với quá trình phát triển
kinh tế của đất nước. Chúng ta có thể điểm lại các giai đoạn đó như sau:
1. Thời Kỳ 1955 - 1960
Đất nước vừa ra khỏi chiến tranh. Trên các tuyến sông biển toàn
miền Bắc, phương tiện vận t
ải hết sức nghèo nàn, lạc hậu, chỉ có một ít ca
nô, sà lan cũ chạy trên một vài tuyến đi Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định…,
trong khi yêu cầu vận tải phục vụ công cuộc khôi phục kinh tế đặt ra bao
nhiêu vấn đề cần giải quyết. Nhiệm vụ của ngành đóng tàu trong giai đoạn
này chỉ là lắp ráp các phân đoạn, tổng đoạn sà lan, tàu lai, tàu cuốc có sẵn
từ Liên Xô (cũ), Trung Quốc, CHDC Đức (c
ũ) chuyển sang. Cơ sở sản
xuất của ngành chỉ gồm 4 Xưởng đóng tàu biển và Xưởng cơ khí Hải
Phòng (tiền thân của nhà máy đóng tàu biển Bạch Đằng ngày nay) đợt đầu
chuẩn bị khởi công. Bộ phận thiết kế tàu thuỷ mới bắt đầu được thành lập
theo đúng “bài bản” của công nghệ đóng tầu mới mà ta đã bước đầu tiếp
thu từ Liên Xô, Trung Qu
ốc. Đây là thời kỳ tập dượt của công nghiệp đóng

i nhịp độ
ngày càng sôi động nhằm khôi phục lại đất nước. Những con tàu vận tải đủ
các loại đã lần lượt được bổ sung vào các đơn vị vận tải, đơn vị giao thông,
xí nghiệp công nghiệp trên toàn miền Bắc. Và để đáp ứng với yêu cầu của
cách mạng miền Nam, từ 1961 – 1962 chúng ta đã cho ra đời những chiếc
Trần Thị Hồng Bích – A7K38B 12
“tàu không số” phục vụ cho đường mòn Hồ Chí Minh trên biển, chuyển
quân, lương tiếp sức cho đồng bào miền Nam đánh Mỹ.
Khi giặc Mỹ gây ra chiến tranh phá hoại miền Bắc thì nhiệm vụ của
người công nhân đóng tàu nặng nề hơn. Đó là việc đảm bảo giao thông. Có
thể nói đây là thời kỳ nẩy nở nhiều sản phẩm minh chứng cho trí tuệ Việt
Nam, chứng minh cho ý chí tự lực tự
cường trong việc chiến tranh không
cân sức nhằm đảm bảo giao thông, chi viện cho tiền tuyến. Trong giai đoạn
này chúng ta phải tập trung phần lớn năng lực phục vụ cho việc sản xuất
các phương tiện vận tải thuỷ thời chiến, đồng thời phải chuẩn bị cho nhu
cầu phương tiện vận tải thuỷ thời bình. Một số sản phẩm tiêu biểu cho thời
kỳ này như: Tàu cao tốc phóng lôi cho Hải Quân, các loại sản phẩm rút
gọn kích thước cho phù hợp với thời chiến (ca nô lai phà, ca nô con cóc, ca
nô con nòng nọc…), các loại sà lan 30 – 100T, thuyền vận tải biển gắn
máy 50 tấn… làm tiền đề cho việc chế tạo loạt tàu “Tự lực” hơn 500 chiếc
sau này. Đặc biệt các sản phẩm đảm bảo giao thông trên các bến phà, bến
sông được thiết kế và chế tạo hết sức đa dạ
ng. Đó là máy kéo lội nước, phà
ghép, phà truyền lực, sariô truyền lực…được thử nghiệm và đưa vào hoạt
động ở ngoài địa phương, nhất là trên tuyến lửa Khu IV. Hàng loạt tàu
khách (trên 100 khách), hàng loạt ca nô, tàu lai trong sông và lai phà ra

nhân dân Việt Nam , T5 đã hoàn thành việc rà quét hàng vạn trái bom mìn
trên các tuyến đường thuỷ ở
miền Bắc.
Sau khi nước nhà thống nhất (1975) hoạt động công nghiệp đóng tàu
biển bước sang thời kỳ hoà bình – xây dựng với nhiệm vụ chính trị là :
nghiên cứu, thiết kế chế tạo các loại phương tiện thuỷ phục vụ yêu cầu của
sự nghiệp phát triển ngành GTVT nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Thành quả của thời kỳ này là hàng loạt sản phẩm đã được thiết kế và cho
ra
đời phục vụ sản xuất trên suốt chiều dài đất nước; các sản phẩm ngày
Trần Thị Hồng Bích – A7K38B 14
càng đa dạng về chủng loại, tăng dần về quy mô và trình độ kỹ thuật hiện
đại. Nhiều loại tầu đã và đang được thiết kế có trọng tải khác nhau. Những
sản phẩm điển hình trong giai đoạn này là : Tàu hàng cỡ nhỏ 70 -400T
chạy ven biển, tàu khách đi sông và tàu du lịch các loại, tàu lai, tàu kéo đẩy
các loại, đội sà lan với nhiều chủng loại được bổ sung thêm để thích ứng
v
ới hiện trường, các loại âu nổi, các loại thuyền, xuồng phục vụ yêu cầu
vận tải – du lịch đường thuỷ, phục vụ chống lụt, phục vụ công tác khác, tàu
cao tốc bằng thép cường độ cao và hợp kim nhôm…
Số lượng sản phẩm trong giai đoạn này được tăng lên rõ rệt, tuy tổng
sản phẩm mà ngành tạo ra cho xã hội chiếm một tỷ trọng không lớn. Lực
lượng lao
động tăng cả về chất lượng và số lượng : Đội ngũ cán bộ KHKT,
công nhân lành nghề được đào tạo tại các nước có nền công nghiệp đóng
tàu biển phát triển trong khối XHCN được bổ sung cho ngành ngày một
nhiều. Trong giai đoạn này, nhà máy đóng tàu biển Hạ Long có quy mô


Trần Thị Hồng Bích – A7K38B 16
CHƯƠNG II.
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP ĐÓNG TÀU BIỂN
VÀ VAI TRÒ CỦA NGÀNH NÀY TRONG CHUYÊN CHỞ HÀNG
HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
I. Tình hình phát triển ngành công nghiệp đóng tàu biển Việt Nam trong
những năm gần đây
Nền kinh tế Việt Nam bước sang trang mới: Kinh tế thị trường với sự
năng động và sáng tạo của từng thành viên tham gia vào nền kinh tế đó.
Dựa vào nhu cầu c
ủa ngành hàng hải, đầu khí, của các địa phương, của
quốc phòng…, ngành công nghiệp đóng tàu biển đã thiết kế và chế tạo
được một khối lượng lớn phương tiện thuỷ với chất lượng ngày càng hoàn
thiện. Việc chế tạo các loại phương tiện thuỷ không chỉ phục vụ phát triển
đội tàu trong nước mà còn vươn tới các nước trong khu vực. Nhà máy
đóng tàu biển Tam Bạc, Hạ Long, Sông Cấ
m đã đóng mới những con tàu
chở hàng, chở khách cho nước bạn Lào, Căm Pu Chia. Và nhằm khai thác,
tận dụng nguyên vật liệu đã qua sử dụng, ngành đã thành lập các cơ sở
nhập khẩu tàu cũ về phá dỡ lấy tôn thép đặc chủng cung cấp cho ngành,

400.000T. Công ty liên doanh đang tích cực chuẩn bị đầu tư giai đoạn 2 để
tạo ra năng lực đóng mới tàu biển có trọng tải đến 100.000T vào những
năm gần đ
ây.
1. Sản phẩm và năng lực sản xuất
1.1. Đóng mới
Trong những năm qua, các nhà máy và cơ sở đóng tàu biển của ngành
công nghiệp đóng tàu biển đã đóng mới được khoảng 320 phương tiện, chủ
Trần Thị Hồng Bích – A7K38B 18
yếu là các tàu hàng cỡ nhỏ, tàu lai, tàu đẩy, sà lan…với tổng trọng tải
127.292DWT, tổng công suất khoảng 407.551cv, tuổi bình quân khoảng
6,5 tuổi. Ngành công nghiệp đóng tàu biển trong nước đến nay chỉ mới đáp
ứng chưa đầy 20% nhu cầu cần đóng mới các phương tiện thuỷ. (Xem
bảng 1)
Qua thống kê cho thấy sản phẩm của ngành công nghiệp đóng tàu
biển Việt Nam ngoài mục đích phục vụ an ninh quốc phòng thì sả
n phẩm
đóng mới cung cấp cho thị trường theo hướng phục vụ vận tải đường biển
của kinh tế Việt Nam. Trong tổng sản lượng đóng mới hàng năm, lượng
tàu phục vụ cho vận chuyển hàng hoá bằng đường biển chiếm khoảng 20%
tổng sản lượng. Phương tiện chở sản phẩm dầu nhập khẩu, dầu thô khai
thác trong nước chưa được chú tr
ọng mặc dù nhu cầu thị trường này là rất
lớn. Hiện nay việc vận chuyển dầu thô được thực hiện với các phương tiện
vận chuyển chủ yếu thuê của nước ngoài, điều này làm giảm nguồn lợi
nhuận chúng ta thu được qua việc khai thác dầu khí.


4
5
4
1
4 Tàu phục vụ an ninh _ quốc phòng:
- Tàu tuần tra cao tốc.
- Tàu vận tải quân sự có sức chở 400 -600T
- Tàu vận tải quân sự có sức chở trên 1.000T
- Tàu cao tốc vỏ thép cường độ cao.
- Tàu vận tải đổ bộ.

4
25
12
3
3
5 Sà lan các loại:
- Sà lan chở hàng tự hành đến 400T
- Sà lan chở dầu 300 – 600T.
- Sà lan mặt boong.

35
6
26
6 Tàu, phà chở khách:
- Phà tự hành dưới 100T.
- Phà tự hành 100T.
- Tàu khách đến 220 chỗ.
- Tàu du lịch trên sông.


biệt, thời gian lắp đặt máy móc thiết bị, chạy thử và bàn giao tàu chưa đầy
2 tháng.
Sản phẩm tiêu biểu thứ hai là công trình hoán cải tàu RAYNA 32,000
tấn thành tàu Bạch Đằng Giang chở hàng chuyên dụng do Công ty tư vấn
thiết kế công nghiệp tàu thuỷ thiết kế, ba đơn vị đồng thi công là Công ty
công nghiệp tàu thuỷ Nam Triệu, nhà máy đóng tàu biển Bạch Đằng và
công ty đóng tàu biển và công nghiệp hàng hải Sài Gòn.
1.2. Sửa chữa
Ngành đóng tàu biển đã được thực hiện tốt việc sửa chữa các loại tàu,
công trình nổi cho chủ tàu trong và ngoài nước. Trung bình hàng năm đã
có khoảng 230 – 250 tàu biển các loại cỡ 1.000DWT đến lớn nhất
15.000DWT được sửa chữa tại ụ, gần 2.000 các loại tàu sông, ca nô, tàu lai
dắt, phà được sửa chữa lớn, nhỏ tại các cơ sở đóng tàu biển,
đại tu của
ngành, cụ thể:
- Sửa chữa thay thế các bộ phận kết cấu vỏ từ cấp 2 – 3 năm cho các tàu
5.000 – 15.000DWT, đến cấp 5 năm cho các tàu 1.000 – 5.000DWT tại các
nhà máy có quy mô vừa và lớn.
Trần Thị Hồng Bích – A7K38B 21
- Sửa chữa vừa và lớn các loại máy có công suất trung bình và nhỏ, cỡ
dưới 2.500CV. Đối với các máy hiện đại, công suất lớn, vòng quay thấp
mới thực hiện sửa chữa nhỏ, tháo lắp bảo dưỡng là chính.
Tuy nhiên công nghệ sửa chữa tàu còn tạm thời, mức độ cơ giới hoá
thấp, quy mô công nghệ cũng không đồng bộ, chủ yếu là sửa chữa phần vỏ
tàu, phần trang trí và sửa chữ
a các trang thiết bị thông thường, còn công
nghệ cũng như kỹ thuật sửa chữa hệ thống động lực, hệ thống điều khiển,

Trong đó tỷ trọng các năm 2001 và 2002 của các hoạt động như sau:
- Đóng mới và sửa chữa: 57%.
- Dịch vụ khác (phá dỡ tàu cũ, thương mại…): 43%.
Theo số liệu thống kê, trong những năm gần đây, ngành công nghiệp
đóng tàu biển Việt Nam đã có tiến bộ đáng kể về tăng trưởng giá trị sản
xuất hàng năm. Xu hướng tăng trưởng sản xu
ất của ngành là phù hợp với
xu hướng phát triển: công nghiệp đóng tàu biển thế giới đang chuyển về
các nước Châu Á. Hơn nữa công nghiệp đóng tàu biển Việt Nam bước đầu
đã được Nhà nước quan tâm đầu tư chiều sâu, mở rộng các cơ sở sản xuất,
sắp xếp lại và ổn định tổ chức sản xuất trên phạm vi cả nước. Về cơ b
ản,
trong thời kỳ 1990 – 2000 ngành đã đạt được các chỉ tiêu giá trị sản lượng
đặt ra với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 25,6% (tính từ 1996 –
2000 chưa kể công ty liên doanh Hyunđai – Vinashin)
2. Quy mô sản xuất và sử dụng lao động
2.1. Các cơ sở sản xuất.
Trần Thị Hồng Bích – A7K38B 23
Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam hiện có các đơn vị trải
dài trên phạm vi cả nước từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Phú Thọ, Hải Dương,
Hà Nội, Nam Định, Đà Nẵng, Khánh Hoà, thành phố Hồ Chí Minh đến
Cần Thơ, trong đó các cơ sở sản xuất chủ yếu được phân chia thành các
khu vực; Hải Phòng – Quảng Ninh; miền Trung và khu vực miền Nam.
(Xem Bảng 3)
Bảng 3. Chi tiết cơ sở chủ yếu
đóng tàu biển của toàn ngành
TT Tên đơn vị Vị trí Hoàn thành Quy mô

1973 Na Uy
giúp xây
dựng
Đóng mới –sửa chữa
tàu đến 1500T
5 N/m đóng tàu biển
Sông Cấm
Nt 1961 Đóng mới –sửa chữa
tàu đến 650T
6 N/m đóng tàu biển Tam
Bạc
Nt 1963 Đóng mới tàu đến
400T
7 Cty đóng tàu biển Nam
Triệu
Quảng
Ninh
1967 Sửa chữa tàu đến
5000T
8 N/m đóng tàu biển
Sông Lô
Phú Thọ 1969 Đóng mới –sửa chữa
tàu đến 600T
9 N/m đóng tàu biển Nam Nam Hà 1960 Đóng mới –sửa chữa
Trần Thị Hồng Bích – A7K38B 24
Hà tàu đến 600T
10 N/m đóng tàu biển Bến

Hải Phòng – Quảng Ninh là những nơi có các nhà máy đóng tàu biển
đầu tiên của miền Bắc. Cơ sở vật chất kỹ thuật các nhà máy tương đối đầy
đủ. Khu vực này là nơi đóng mới và sửa chữa tàu biển chủ yếu của Việt
Nam . Năng lực sửa chữa đạt khoảng 85 – 91 chiếc/ năm chiếm 42% tổng
năng lực hiện có c
ủa cả nước; đóng mới 5 – 6 chiếc/năm (cỡ tàu 5.000 –
10.000T)- và đây cũng chính là sản lượng và năng lực đóng tàu biển hiện
nay của cả nước.
2

 Thế mạnh

2
Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam – Tham luận về công tác quản lý sản xuất, tại hội nghị
tổng kết công tác năm 2002 và triển khai kế hoạch năm 2003

Trích đoạn Vương Đình Lam Định hướng phát triển ngành hàng hải Việt Nam giai đoạn 2001- Kim Chi Đóng tàu Việt Nam những bước tiến mớ Nhược điểm của vận tải bằng đường biển Xu h ướng phát triển của thế giới và khu vực tác động đến sự phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu biển Việt Nam Đường lối phát triển công nghiệp đóng tàu biển của Chính phủ
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status