Tài liệu Đề tài “Du lịch sinh thái và thực tế phát triển ở Việt Nam” - Pdf 92

LUẬN VĂN

Đề tài “Du lịch sinh thái và thực tế
phát triển ở Việt Nam”
§Ò ¸n Kinh tÕ Du lÞch
1
PHẦN MỞ ĐẦU
Nếu chúng ta là nhà điều hành Tour du lịch của một công ty lữ hành mà
được một du khách hay một tổ chức yêu cầu phải xây dựng một Tour du lịch
sinh thái thì ta phải làm gì ?
Chúng ta cũng biết bởi khái niệm du lịch sinh thái còn khá mới mẻ đối với
ngành du lịch Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung. Một hình thái du
lịch, một đoạn thị trường còn mới mẻ như vậy tại sao các nhà kinh tế không đầu
tư vào đó? Muốn đầu tư vào du lịch sinh thái có hiệu quả có cơ sở lý luận cơ bản
về du lịch sinh thái, nghiên cứu mô hình cơ cấu tổ chức quản lý du lịch sinh thái,
nghiên cứu các đối tượng tác động và các yêu cầu nguyên tắc để phát triển du


1.1. Du lịch sinh thái và đặc điểm chủ yếu
Du lịch sinh thái đang dấy lên trong giới lữ hành và bảo tồn ngày một tăng,
nguồn gốc của nó giống như một sự tiến hoá hơn là một cuộc cách mạng. Du
lịch sinh thái bắt nguồn từ du lịch thiên nhiên và du lịch ngoài trời.
Những du khách lũ lượt kéo đến các vườn quốc gia Yellowstone và
Ysoemite hàng thế kỷ trước dây là những nhà du lịch sinh thái đầu tiên. Những
khách lữ hành đến Serengeti từ khoảng nửa thế kỷ trước, những nhà giã ngoại
mạo hiểm Himalaya đã cắm trại trên Annapurna 25 năm sau, hàng ngàn người
đến chụp ảnh chim cánh cụt ở Nam cực, những nhóm người đến Belize hoặc
những người đến ngủ trong những ngôi nhà dài của Borne cũng có thể được coi
là những khách du lich sinh thái.
Thế kỷ 20 đã chứng kiến sự thay đổi kịch tính và liên tục của lữ hành thiên
nhiên. Châu phi là một ví dụ điển hình. Những cuộc đi săn năm 1909 của
Thoedore Rooevelt để cho vào túi săn những chiếc đầu hoặc những cái sừng lớn
nhất mà ông có thể tìm thấy là một điển hình đương đại. Vào những năm 70, du
lịch đại chúng và du lịch không phân biệt, vẫn chủ yếu để tâm đến các con thú
lớn, đã phá hoại các môi trường sống gây phiền nhiễu đến các động vật , và phá
huỷ thiên nhiên. Ngày nay , các hành vi này đang thay đổi .Ngày càng nhiều
khách thăm quan nhận thức được tác hại sinh thái họ có thể gây ra cho giá trị
của tự nhiên , và cho những mối quan tâm của nhân dân địa phương. Các tour du
lịch chuyên hoá - săn chim , cưỡi lạc đà ,bộ hành thiên nhiên có hướng dẫn và
nhiều nữa - đang tăng lên. Cái dòng nhỏ nhưng đang lớn lên này chính là du
lịch sinh thái .Và, một cách ngạc nhiên du lịch sinh thái dang làm cho cả nghành
công nghiệp lữ hành trở nên nhạy cảm hơn với môi trường.
1.2 Khái quát du lịch sinh thái.
Du lịch sinh thái (Ecotourism) là một khái niệm tương đối mới mẻ , đang là
mối quan tâm của nhiều người ở nhiều lĩnh vực khác nhau .Có nhiều cách đặt
vấn đề về du lịch sinh thái và sự tìm kiếm đi dến sự thống nhất bản chất , nhận
thức của loại hình du lịch sinh thái vẫn đang được tiếp tục trên nhiều diễn đàn

sinh thái như sau:
- Du lịch xanh, du lịch dã ngoại.
- Du lịch nhạy cảm, du thuyền trên sông, hồ, trên biển...
- Du lịch thiên nhiên, tham quan miệt vườn, làng bản...
- Du lịch môi trường.
- Du lịch thám hiểm, mạo hiểm,lặn biển, thăm hang động...
§Ò ¸n Kinh tÕ Du lÞch

Từ những năm 1985-1990, đặc biệt là sau năm 1990 khoa học sinh thái
được chấp nhận khá rộng rãi trên thế giới và cũng từ khoa học sinh thái trở
thành một lĩnh vực khoa học có giá trị hơn nhiều nên ngành kinh tế-xã hội có ý
thức vận dụng những lý thuyết cơ bản của sinh thái học. Ngành du lịch thế giới
từ sau cuộc Hội nghị về Trái đất ở Rio đe Janeiro năm 1992 đã thực sự vận dụng
sinh thái học dưới nhiều mục tiêu sự phát triển bền vững.
Việc tổ chức và điều hành loại hình du lịch sinh thái như thế nào để có thể:
- Bảo tồn môi trường tự nhiên mà du lịch đang sử dụng.
- Nâng cao ý thức của du khách để họ nhận rõ đặc điểm của môi trường tự
nhiên trong khi du lịch đang hoà mình vào đó.
- Động viên trách nhiệm của dân cư địa phương tại khu du lịch, điểm du
lịch có trách nhiệm quản lý bảo vệ và phát triển du lịch nhằm bảo đảm sự phát
triển bền vững của môi trường du lịch và thiết thực tạo được lợi ích lâu dài.
Nói chung du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào những hình thức
truyền thống sẵn có, nhưng có sự hoà nhập vào môi trường tự nhiên với văn hoá
bản địa, du khách có thêm những nhận thức về đặc điểm của môi trường tự
nhiên, về những nét đặc thù vốn có của văn hoá từng điểm, từng vùng, khu du
lịch và có phần trách nhiệm tự giác để không xảy ra những tổn thất, xâm hại đối
với môi trường tự nhiên và nền văn hoá sở tại. Còn về quy mô của loại hình du
lịch sinh thái thì tuỳ thuộc vào khả năng, điều kiện, biện pháp tổ chức của nhà
quản lý hoạt động du lịch, có thể dần dần từ quy mô khiêm tốn để phát triển
rộng rãi.

về tổng thể một tương lai phát triển lâu dài của hệ sinh thái, với tư cách là một
ngành kinh tế. Bên cạnh xu thế phát triển du lịch sinh thái do nhu cậu khách
quan, xu thế này còn không nằm ngoài xu thế chung về phát triển xã hội của loài
người khi các giá trị tài nguyên ngày càng bị suy thoái, khai thác cạn kiệt.
Việt Nam là một đất nước nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nằm
hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới của nửa cầu bắc, thiên về chí tuyến hơn là
phía xích đạo. Vị trí đó đã tạo nên một nền nhiệt độ cao, độ ẩm không khí cao,
mưa nhiều. Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3000km, lưng dựa vào dãy
Trường Sơn. Chính các điều kiện đó đã mang lại cho Việt Nam một hệ động
thực vật vô cùng phong phú, đa dạng và độc đáo. Kết hợp vào đó có rất nhiều
nét văn hoá dân tộc đặc sắc, đậm đà. Những yếu tố đó đã tạo nên cho Việt Nam
một lợi thế to lón trong việc phát triển loại hình du lịch sinh thái. Cùng với việc
nỗ lực bảo tồn, khai thác phát huy các giá trị tài nguyên thiên nhiên và văn hoá
phục vụ phát triển kinh tế thông qua du lịch sinh thái là một xu thế tất yếu. Với
tư cách là một ngành kinh tế mũi nhọn - Du lịch trong đó có Du lịch sinh thái
§Ò ¸n Kinh tÕ Du lÞch

ngày càng khẳng định vị thế của mình đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nước.
§Ò ¸n Kinh tÕ Du lÞch

1.4 Những yêu cầu và nguyên tắc cơ bản để phát triển du lịch sinh thái
1.4.1 Những yêu cầu cơ bản để phát triển du lịch sinh thái
Yêu cầu đầu tiên để có thể tổ chức được du lịch sinh thái là sự tồn tại của
các hệ sinh thái tự nhiên điển hình với tính đa dạng sinh thái cao. Sinh thái tự
nhiên được hiểu là sự cộng sinh của các điều kiện địa lý, khí hậu và động thực
vật, bao gồm: sinh thái tự nhiên (natural ecology), sinh thái động vật (animal
ecology), sinh thái thực vật (plant ecology), sinh thái nông nghiệp ( agri-cultural
ecology), sinh thái khí hậu ( ecoclimate) và sinh thái nhân văn (human ecology).
Đa dạng sinh thái là một bộ phận và là một dạng thứ cấp của đa dạng sinh

- Hoạt động du lịch sinh thái đòi hỏi phải có được người điều hành có
nguyên tắc. Các nhà điều hành du lịch truyền thống tường chỉ quan tâm đến lợi
nhuận và không có cam kết gì đối với việc bảo tồn hoặc quản lý các khu tự
nhiên, họ chỉ đơn giản tạo cho khách du lịch một cơ hội để biết được những giá
trị tự nhiên và văn hoá trước khi những cơ hội này thay đổi hoặc vĩnh viễn mất
đi. Ngược lại, các nhà điều hành du lịch sinh thái phải có được sự cộng tác với
các nhà quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên và cộng đồng địa phương nhằm mục
đích đóng góp vào việc bảo vệ một cách lâu dai các giá trị tự nhiên và văn hoá
khu vực, cải thiện cuộc sống, nâng cao sự hiểu biết chung giữa người dân địa
phương và du khách.
Yêu cầu thứ ba nhằm hạn chế tới mức tối đa các tác động có thể của hoạt
động du lịch sinh thái đến tự nhiên và môi trường, theo đó du lịch sinh thái cần
được tổ chức với sự tuân thủ chặt chẽ cá quy định về “sức chứa”. Khái niệm “
sức chứa” được hiểu từ bốn khía cạnh: vật lý, sinh học, tâm lý và xã hội. Tất cả
những khía cạnh này có liên quan tới lượng khách đến một địa điểm vào cùng
một thời điểm.
Đứng trên góc độ vật lý, sức chứa ở đây được hiểu là số lượng tối đa
khách du lịch mà khu vực có thể tiếp nhận. Điều này liên quan đến những tiêu
chuẩn về không gian đối vớ mỗi du khách cũng như nhu cầu sinh hoạt của họ.
Đứng ở góc độ xã hội, sức chuuas là giói hàn về lượng du khách mà tại đó
bắt đầu xuất hiện những tác động tiêu cực của các hoạt động du lịch đến đời
sống văn hoá-xã hội, kinh tế-xã hội của khu vực. Cuộc sống bình thường của
cộng đồng địa phương có cảm giác bị phá vỡ, xâm nhập.
Đứng ở góc độ quản lý, sức chứa được hiểu là lượng khách tối đa mà khu
du lịch có khả năng phục vụ. Nếu lượng khách vượt quá giói hạn này thì năng
lực quản lý ( lực lượng nhân viên, trình đọ và phương tiện quản lý...) của khu du
lịch sẽ khhong đáp ứng được yêu cầu của khách, làm mất khả năng quản lý và
kiểm soát hoạt động của khách, kết quả là sẽ làm ảnh hưởng đến môi trường và
xã hội.
Do khái niệm sức chứa bao gồm cả định tính và định lượng, vì vậy khó có

Điều đó không có nghĩa là luôn có sự tăng trưởng liên tục về du lịch. Đây là
điểm khác biệt cần nhấn mạnh trong thời điểm mà Việt nam bắt đầu lo lắng về
tốc độ tăng trưởng của du lịch .
“Du lịch sinh thái được phân biệt với các loại hình du lịch thiên nhiên khác
về mức độ giáo dục cao về môi trường và sinh thái thông qua những hướng dẫn
viên có nghiệp vụ lành nghề. Du lịch sinh thái chứa đựng mối tác động qua lậi
lớn giữa con người và thiên nhiên hoang dã cộng với ý thức được giáo dục nhằm
§Ò ¸n Kinh tÕ Du lÞch

biến chính những khách du lịch thành những người đi đầu trong việc bảo vệ môi
trường. Phát triển du lịch sinh thái làm giảm tối thiểu tác động của khách du lịch
đến văn hoá và môi trường, đảm bảo cho địa phương được hưởng nguồn lợi tài
chính do du lịch mang lại và cần trú trọng đến những đóng góp tài chính cho
việc bảo tồn thiên nhiên”.
Sau đây là những nguyên tắc cơ bản về thế nào là du lịch sinh thái thực sự
- Du lịch sinh thái phải phù hợp với những nguyên tắc tích cực về môi
trường, tăng cường và khuyến khích trách nhiêm đạo đức đối với môi trường tự
nhiên .
- Du lịch sinh thái là không được làm tổn hại đến tài nguyên, môi trường,
những nguyên tắc về môi trường không những chỉ áp dụng cho những nguồn tài
nguyên bên ngoài (tự nhiên và văn hoá) nhàm thu hút khách mà còn bên trong
của nó.
- Du lịch sinh thái phải tập trung vào các giá trị bên trong hơn là các giá trị
bên ngoài và thúc đẩy sự công nhận các giá trị này .
- Các nguyên tắc về môi trường và sinh thái cần phải đạt lên hàng đầu do
đó mỗi người khách du lịch sinh thái sẽ phải chấp nhận tự nhiên theo đúng nghĩa
của nó và chấp nhận sự hạn chế của nó hơn là làm biến đổi môi trường cho sự
thuận tiện cá nhân.
- Du lịch sinh thái phải đảm bảo lợi ích lâu dài đối với tài nguyên, đối với
địa phương và đối với nghành (lợi ích về bảo tồn hoặc lợi ích về kinh tế, văn

hiện đại. Nhiều tổ chức lữ hành , phục vụ thông tin liên lạc, quảng bá v.v... các
Sở Du lịch, các công ty kinh doanh du lịch về các làng bản, nhân dân địa
phương trên tuyến điểm du lịch đã có kinh nghiệm tốt đảm bảo niềm tin gây cảm
tình đối với du khách. Tuyến du lịch có thể tổ chức dài từ 4-5 ngày đối với toàn
tuyến, tuy nhiên có thể tuỳ theo yêu cầu của du khách mà có thể phân thành một
tuyến nhất định.
Điều đáng mừng là những năm gần đây nhiều tỉnh, thành trong cả nước đã
hưởng ứng tích cực loại hình du lịch sinh thái. Loại hình du lịch này bước đầu
đã được chú ý đầu tư để thu hút nhiều khách tham quan, đồng thời hình thành và
phát huy chất lượng phục vụ của các tuor du lịch làm cho du khách thấy thoải
mái, chủ động.
Sở Du lịch tỉnh Hà Tây đã mở thêm các tour du lịch sinh thái vườn lồng
ghép các tour du lịch làng nghề như vuờn sinh thái ở Chương Mỹ, ở Thường
Tín, khu du lịch sinh thái Song Phương, trang trại sinh thái Vân Canh ở Hoài
Đức, vườn có Ngọc Nhị ở Ba Vì v.v...
Ở Khánh Hoà củng mở các tour du lịch mới đưa du khách đến khu vực
Đầm Môn , bãi tắm Xuân Đừng ở vịnh Văn Phong v.v... các du khách boi
thuyền trên vịnh, thăm một số bãi biển trên vịnh, thăm làng nghề Hà Đằng từ
nhiều năm còn cách biệt với đất liền, thưởng ngoạn Dốc Lết, tắm suối nước
nóng Tháp Bà v.v...
Huyện Sa Pa nằm sâu trong rìa Tây Nam , là huyện từ khi ra đời được coi
là vùng khí hậu ôn đới đặc biệt của Việt Nam. đây là điểm du lịch sinh thái rất
hấp dẫn đối với khách du lịch trong và ngoài nước.
§Ò ¸n Kinh tÕ Du lÞch

Trong vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ cần phải kể đến tiểu vùng
(hoặc khu vực) du lịch Cần Thơ có các yếu tố sinh thái đặc trưng mà các tỉnh
trong vùng này khó hội đủ. Tình này là vùng đất màu mỡ của đồng bằng sông
Cửu Long, nên ngày từ thời còn thuộc Pháp người dân Nam Bộ đã mệnh danh
Cần Thơ là Tây Đô. Ở đây chính quyền thực dân đã bố trí đầy đủ quyền lực để

§Ò ¸n Kinh tÕ Du lÞch

cùng với dự án hình thành khu phố văn hoá-dịch vụ-du lịch người Hoa ở quận 5.
Đồng thời trong kế hoạch 2001-2010 nhằm phát triển loại hinh du lịch sinh thái -
mô hình rất cần thiết, các nhà quản lý du lịch ở thành phố Hồ Chí Minh còn liên
kết mật thiết với một số tỉnh như Quảng Nam, Bình Thuận, Tây Nguyên v.v... để
thu hút du khách thực hiện các tour du lịch sinh thái.
Cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh khoảng 19 km về phía Bắc thuộc
phường Tân Phú ở quận 9, Khu du lịch Suối Tiên có diện tích khoảng 100 ha từ
năm 1999 đã trở thành một điểm hẹn du lịch mới ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ.
Vốn là một nơi hoang dã có một dòng suối nhỏ chảy qua từ nhiều năm trước cho
đến mãi cuối năm 1995 các nhà quản lý của Công ty xuất nhập khẩu lâm sản,
mỹ nghệ, thương mại và du lịch Suối Tiên về phát triển du lịch nên đã thống
nhất nhạnh dạn hợp tác đầu tư thành điểm du lịch sinh thái.
Ở điểm này có các công trình như Đền Vua Hùng, cổng Thần Tiên, Cầu
Kiệu, cung Kỳ Lân, Giếng Mỵ nương v.v... là những cảnh quan nghệ thuật gọi
cho du khách về truyền thống hào hùng của dân tộc Việt Nam. Gần đấy có khu
vui chơi giải trí cùng với hệ thống cáp treo từ trên cao nhìn xuống công trình
Long - Lân - Quy - Phụng nên khu Suối Tiên được người đương thời gọi là vùng
đất tứ linh.
Trong năm 2002 công trình biển Tiên Đồng bao bọc cả dãy núi gọi là Giả
Sơn cùng những di tích văn hoá sinh thái là nui Lạc Long Quân đối diện với nui
Âu Lạc v.v... Phía bên trong các dãy Giả Sơn có những hang động mô phỏng các
hang động như Phong Nha, Nam thiên đệ nhất Động v.v... Khi du khách leo đến
bậc đá cuối cùng ở núi Lạc Long Quân là nhìn thấy cảnh quan bát ngát của
thành phố Hồ Chí Minh.
Ở làng du lịch sinh Xi-Va tại Mũi Né, Phan Thiết do công ty du lịch Than
Niên thành phố Hồ Chí Minh và công ty lương thực tỉnh Bình Thuận đã đầu tư
trên diện tích ở bãi Mũi Né sát biển dưới các hàng phi lao thoáng mát cùng gió
biển gồm các nhà nghỉ bằng bê tông kết hợp các loại vật liệu dân tộc như gỗ,

này đặt tên là Thung Lũng Tình Yêu (Valléc d’amour) có một cảnh hồ rộng
chừng 6 ha với cai tên là hồ Đa Thiện được du khách, đặc biệt là giới trẻ thường
đến vãn cảnh đẹp.
Cùng với các loại tài nguyên du lịch tự nhiên, Việt Nam còn có nhiều di
sản văn hoá lịch sử cổ đại, hiệ đại quý mà các loại hình du lịch cần khai thác để
phát triển du lịch sinh thái. Lịch sử lâu đời của đất nước cho thấy trước khi có
nhà nước khoảng 2000-4000 năm những người tiền sử đã sống, hái lượm, lao
động sản xuất, phát triển tập quán, phong tục và để lại những di chỉ có giá trị.
Tiếp theo các thế hệ liên tục vừa xây dựng nền kinh tế, phát triển đời sống vật
chất và tinh thần, không ngừng đấu tranh bảo vệ nền độc lập của đất nước làm
cho các di sản văn hoá phát triển vừa đa dạng, vừa độc đáo. kho tàng tài nguyên
du lịch về di sản văn hoá phi vật thể và những tài nguyên văn hoá đương đại nói
chung quả là lớn góp phần tạo thêm cơ sở vật chất ổn định để ngành du lịch có
§Ò ¸n Kinh tÕ Du lÞch

điều kiện khai thác, bảo tồn nhằm góp phần tích cực, có hiệu quả vào sự tăng
trưởng của nền kinh tế đất nước.
Tính ra trong cả nước từ miền xuôi đến miền ngưốcc đến hàng ngàn tục lễ
đậm đà tính chất truyền thông xã hội - nhân văn biểu hiện rõ tình cảm quý giá
đối với các nhân vật anh hùng, liệt sỹ có công. Nhưng nói chung đều ghi nhớ
những đóng góp vô giá của các tiền nhân lịch sử và là những di sản văn hoá phi
vật thể mà 54 dân tộc anh em VIệt Nam rất tự hào.
Các lễ hội đều thường diễn ra vào các tháng đầu năm âm lịch; có lễ hội kéo
dài qua nhiều ngày. Nếu đúng dịp diễn ra lễ hội mà có các đoàn khách trong các
tuor du lịch thì quả là cơ hội hiếm có đối với họ. Các du khách có thể hoà nhịp
cùng lễ hội, những giọng hát chân thành, êm dịu, cùng tham gia các diệu múa
v.v... là chắc chắn khi về họ mãi nhớ những buổi hội ngộ lắng đọng đối với họ.
2.2 Tiềm năng để phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam
Với 107 khu rừng đặc dụng với tổng diện tích 2.381.791 ha, trong đó có 12
Vườn quốc gia, 61 khu bảo tồn thiên nhiên và 34 khu rừng văn hoá, lịch sử nên


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status