Tài liệu Đề tài " tình hình thực tế quản lí thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn Quận Ba đình " doc - Pdf 98




Đề Tài:
tình hình thực tế quản lí thu thuế giá
trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể trên địa
bàn Quận Ba đình Trang 1
ALỜI NÓI ĐẦU
khu vực kinh tế cá thể, góp phần tăng thu cho Ngân sách nhà nước.
Bắt nguồn từ những lí do trên nên đề tài có tên gọi là: “Bàn về
công tác quản lí thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể trên
địa bàn quận Ba đình" .

Toàn bộ đề tài được trình bày theo kết cấu sau:

Phần I: Sự cần thiết phải quản lý thuế giá trị gia tăng đối với
thành phần kinh tế cá thể hiện nay.
Phần II: Tình hình quản lý thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh
tế cá thể trên địa bàn quận Ba đình trong quý I năm 2003
Phần III: Một số phương hướng tăng cường quản lý thu thuế giá
trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể ở quận Ba đình.

Vì thời gian thực tập và trình độ hạn hẹp nên bài viết không thể
tránh khỏi khiếm khuyết, sai sót. Rất mong được sự góp ý, chỉ bảo của các
thầy cô, các cán bộ thuế và những người quan tâm.

Xin chân thành cảm ơn.

Trang 3
MỤC LỤC
PHẦN I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI QUẢN LÝ THUẾ
GIÁ TRỊ GIA TĂNG ĐỐI VỚI THÀNH PHẦN KINH TẾ
CÁ THỂ HIỆN NAY.

I. THUẾ VÀ VAI TRÒ CỦA THUẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ


II. TÌNH HÌNH QUẢN LÝ THU THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VỚI
CÁC HỘ KINH TẾ CÁ THỂ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BA ĐÌNH
TRONG NHỮNG THÁNG ĐẦU THỰC HIỆN LUẬT THUẾ MỚI:
1. Quản lý đối tượng nộp thuế.
2. Quản lý căn cứ tính thuế.
3. Quản lý khâu thu nộp tiền thuế.

PHẦN III: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG
TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ THU THUẾ Ở KHU VỰC
KINH TẾ CÁ THỂ TẠI QUẬN BA ĐÌNH.

I. QUẢN LÍ ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ:

1. Quản lý những hộ đã quản lý được .
2. Quản lý những hộ chưa quản lý được. Trang 5

II. QUẢN LÝ VỀ CĂN CỨ TÍNH THUẾ:

III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ THU NỘP TRÊN THUẾ:
1. Công tác xây dựng kế hoạch.
2. Công tác đôn đốc thu nộp thuế.
3. Công tác kiểm tra và thanh tra thuế.

IV. CÁC BIỆN PHÁP VỀ TỔ CHỨC CÁN BỘ:
1. Chấn chỉnh bộ máy hoạt động của Chi cục thuế Quận Ba
Đình.

dân cho Nhà nước được xác định và được quy định công khai bằng luật
pháp của Nhà nước .
Các khoản thuế đóng góp của dân tạo thành quỹ tiền tệ của Nhà
nước. Cùng với sự hoàn thiện chức năng của Nhà nước, phạm vi sử
dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước ngày càng mở rộng. Nó không chỉ đảm
bảo chi tiêu để duy trì quyền lực của bộ máy Nhà nước, mà còn để chi
tiêu cho các nhu cầu phúc lợi chung và kinh tế. Như vậy gắn liền với
Nhà nước, thuế luôn là một vấn đề thời sự nóng bỏng đối với các hoạt
động kinh tế xã hội và với mọi tầng lớp dân cư.
Có rất nhiều các quan điểm nhìn nhận thuế dưới nhiều hình thức
khác nhau, nhưng đứng trên góc độ tài chính, có thể xem xét thuế dưới
khái niệm như sau:
Thuế là một trong những biện pháp tài chính bắt buộc nhưng
phi hình sự của Nhà nước nhằm động viên một số bộ phận thu nhập
từ lao động, từ của cải, từ vốn, từ các chi tiêu hàng hoá và dịch vụ, từ Trang 7
tài sản của các thể nhân và pháp nhân nhằm tập trung vào tay Nhà
nước để trang trải các khoản chi phí cho bộ máy nhà nước và các
nhu cầu chung của xã hội. Các khoản động viên qua thuế được thể
chế hoá bằng luật.
Với nhận thức như vậy, có thể thấy rõ sự khác nhau giữa thuế với
các hình thức phân phối khác dựa trên những đặc điểm chủ yếu sau đây:

Đặc điểm thứ nhất : Thuế là một biện pháp tài chính của
Nhà nước mang tính quyền lực, tính cưỡng chế, tính pháp lý cao nhưng
sự bắt buộc này là phi hình sự.
Quá trình động viên nguồn thu từ thuế của Nhà nước là quá trình
chuyển đổi quyền sở hữu một bộ phận thu nhập của các pháp nhân và

* Đặc điểm thứ ba: Thuế là một khoản đóng góp không mang tính
chất hoàn trả trực tiếp. Nghiã là khoản đóng góp của công dân bằng
hình thức thuế không đòi hỏi phải hoàn trả đúng bằng số lượng và
khoản thu mà nhà nước thu từ công dân đó như là một khoản vay
mượn. Nó sẽ được hoàn trả lại cho người nộp thuế thông qua cơ chế
đầu tư của Ngân sách nhà nước cho việc sản xuất và cung cấp hàng hoá
công cộng.
Đặc điểm này làm nổi rõ sự khác nhau giữa thuế và lệ phí. Lệ phí
được coi là một khoản đối giá giữa Nhà nước với công dân, khi công
dân thừa hưởng những dịch vụ công cộng do nhà nước cung cấp phải
trả một phần thu nhập của mình cho nhà nước. Tuy nhiên việc trao đổi
này thường không tuân thủ theo hình thức trao đổi ngang giá dựa trên
quy luật của thị trường.
Tóm lại, Thuế là một biện pháp kinh tế của mọi Nhà nước, nó
được thực thi khi hoạt động kinh tế tạo ra thu nhập hoặc sử dụng nguồn
thu nhập tạo ra. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường vai trò của Nhà
nước ngày càng trở nên quan trọng thì vai trò của thuế cũng chiếm vị trí Trang 9
không thể thiếu được trong công tác quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh
tế.

2. Vai trò của Thuế trong nền kinh tế thị trường:

Sử dụng cơ chế thị trường để giải quyết 3 vấn để cơ bản của nền
kinh tế (sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai) là phát kiến vĩ đại của nhân
loại, cơ chế thị trường thông qua những yếu tố của nó đã tạo ra động
lực thúc đẩy sản xuất phát triển, kích thích tăng năng suất lao động,
nâng cao chất lượng hiệu quả, thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất,

nước ta, Thuế thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà
nước từ năm 1990. Điều này được thể hiện qua tỷ trọng số thuế trong
tổng thu ngân sách .
Biều 1: Tình hình tỉ lệ thuế và phí trong tổng thu ngân sách nhà
nước ta trong thời gian qua ( Tài liệu của Tổng cục thuế ).

Năm Tổng số thuế và phí
( tỷ đồng)
% So với tổng thu
NSNN
% So với GDP
1990 5906 73.7 14.0
1991 9844 92.7 12.83
1992 18514 88.0 16.75
1993 28695 90.5 21.0
1994 36629 89.6 21.51

Qua biểu trên ta thấy số thu thuế và phí đã chiếm phần chủ yếu
trong tổng thu NSNN và tăng nhanh qua các năm, đã bảo đảm về cơ
bản yêu cầu chi thường xuyên ngày càng tăng của NSNN, giảm bội chi
ngân sách, giảm lạm phát, từng bước góp phần ổn định trật tự xã hội, Trang 11
giành một phần để tăng chi cho tích luỹ. Như vậy, chứng tỏ thuế là
nguồn thu quan trọng nhất của NSNN.

* Thuế, một công cụ góp phần điều chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mô
của Nhà nước:


động vào cung-cầu nhằm điều chỉnh chu kỳ kinh doanh- một đặc
trưng vốn có của nền kinh tế thị trường.
Khi nền kinh tế suy thoái, tức là khi đầu tư ngừng trệ, sản xuất và
tiêu dùng đều giảm thì nhà nước dùng thuế để kích thích đầu tư và
khuyến khích tiêu dùng.
- Bằng việc giảm thuế đánh vào sản xuất, giảm thuế đối với
hàng sản xuất ra để khuyến khích tạo lợi nhuận, kích thích
việc đầu tư vào sản xuất.
- Bằng việc giảm thế đánh vào tiêu dùng nhằm khuyến khích
tiêu dùng.
- Để hạn chế và gây áp lực đối với việc lưu giữ vốn không đưa
vào đầu tư, có thể tăng thuế đánh vào thu nhập về tiền gửi tiết
kiệm và thu nhập về tài sản dự trữ, từ đó sẽ khuyến khích việc
đưa vốn vào đầu tư, sản xuất kinh doanh.
Khi nền kinh tế hưng thịnh, để ngăn chặn nguy cơ một nền kinh
tế “nóng” phát triển dẫn đến lạm phát và khủng hoảng thừa thì nhà
nước dùng thuế để giảm tốc độ đầu tư ồ ạt và giảm bớt mức tiêu dùng
của xã hội. Song việc tăng thuế phải được xem xét trong một giới hạn
cho phép để đảm bảo vừa tăng nguồn thu cho NSNN vừa điều chỉnh cơ
cấu ngành nghề hợp lý.
Như vậy, có thể thấy sự tác động của thuế có ảnh hưởng rất lớn
đến nền kinh tế, đến việc điều tiết kinh tế thị trường của Nhà nước.
Thông qua thuế, Nhà nước thực hiện định hướng phát triển sản xuất. Trang 13
Chính sách thuế có định hướng phân biệt, có thể góp phần tạo ra sự
phát triển cân đối hài hoà giữa các ngành, các khu vực, các thành phần
kinh tế, làm giảm bớt chi phí xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường xảy ra các chu kỳ kinh doanh đó là chu kỳ

nước.

3. Thuế là công cụ kiềm chế lạm phát:

Nguyên nhân của lạm phát có thể do cung cầu làm cho giá cả
hàng hoá tăng lên hoặc do chi phí đầu vào tăng. Thuế được sử dụng để
điều chỉnh lạm phát, ổn định giá cả thị trường. Nếu cung nhỏ hơn cầu
thì nhà nước dùng thuế để điều chỉnh bằng cách giảm thuế đối với các
yếu tố sản xuất, giảm thuế thu nhập để kích thích đầu tư sản xuất ra
nhiều khối lượng sản phẩm nhiều hơn. Đồng thời tăng thuế đối với
hàng hoá tiêu dùng để giảm bớt cầu. Nếu lạm phát do chi phí tăng, gia
tăng thất nghiệp, sự trì trệ của tốc độ phát triển kinh tế, giá cả đầu vào
tăng, nhà nước dùng thuế hạn chế tăng chi phí bằng cách cắt giảm thuế
đánh vào chi phí, kích thích tăng năng suất lao động.

4. Thuế góp phần bảo hộ sản xuất trong nước và tạo điều
kiện hoà nhập nền kinh tế thế giới:

Bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước tránh khỏi sự cạnh
tranh khốc kiệt từ bên ngoài được coi là hết sức cần thiết đối với các
nước. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua thuế xuất nhập khẩu. Để
kích thích sản xuất trong nước phát triển, kích thích sản xuất hàng hoá
xuất khẩu, nhà nước đánh thuế rất thấp hoặc không đánh thuế vào hàng
xuất khẩu. Khuyến khích xuất khẩu hàng hoá đã qua chế biến, hạn chế
xuất khẩu nguyên liệu thô. Đánh thuế nhập khẩu thấp đối với hàng hoá Trang 15
máy móc thiết bị trong nước chưa sản xuất được và đánh thuế nhập
khẩu cao đối với hàng hoá máy móc thiết bị trong nước đã sản xuất

tạo cho doanh nghiệp yên tâm bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh
doanh.
Ở nước ta, đến thời điểm này, Nhà nước thấy cần thiết phải áp
dụng thuế Giá trị gia tăng để thay thế cho thuế doanh thu vì các lý do
sau:
Với Việt Nam, Thuế doanh thu đã được áp dụng từ rất lâu,
trước đây có tên là Thuế doanh nghiệp, từ khi cải cách thuế bước một
(từ năm 1990) được đổi tên là Thuế doanh thu. Thuế doanh thu có đặc
trưng cơ bản là có nhiều mức thuế suất, phân biệt theo nghành hàng và
mặt hàng. Thuế thu hàng tháng và tính trên tổng doanh thu bán hàng,
không có khấu trừ thuế đã nộp ở khâu trước. Thuế suất được quy định
thấp.
Thuế doanh thu có ưu điểm là tính toán đơn giản, thu dứt điểm
từng lần bán hàng mà không phải theo dõi thoái trả số thuế đã nộp ở
khâu trước. Vì vậy, nguồn thu của các cấp ngân sách và giữa các địa
phương cũng tương đối ổn định.
Tuy nhiên, thuế doanh thu có nhiều nhược điểm, trong đó,
nhược điểm lớn nhất là thu thuế trùng lắp. Thuế doanh thu quy định cứ
mỗi lần bán hàng là một lần phải nộp Thuế doanh thu nên càng chuyên
môn hoá sâu thì càng phải nộp nhiều thuế. Ngược lại, nếu tổ chức sản
xuất khép kín kiểu tự cấp tự túc thì phải nộp ít thuế hơn. Do đó, thuế
doanh thu không phù hợp với yêu cầu Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá.
Mặt khác, cơ chế thuế có nhiều mức thuế suất để bảo hộ đến từng
ngành hàng, mặt hàng chỉ phù hợp với thời kỳ kế hoặch hoá, thời kì mà
giá cả đại bộ phận hàng hoá đều do Nhà nước thống nhất quản lý.Việc
quy định quá nhiều thuế suất làm cho sắc thuế phức tạp, tạo kẽ hở để Trang 17
trốn thuế, lách thuế. Mặt khác thuế Doanh thu quy định quá nhiều các

bỏ vốn ra đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, phù hợp với định
hướng phát triển kinh tế ở nước ta trong thời gian tới.
+ Thuế Giá trị gia tăng góp phần khuyến khích mạnh mẽ việc
sản xuất hàng xuất khẩu, vì hàng hoá xuất khẩu chẳng những không
phải chịu thuế Giá trị gia tăng ở khâu xuất khẩu mà còn được thoái trả
lại toàn bộ số thuế đã thu ở các khâu trước.
+ Thuế Giá trị gia tăng được thu tập trung ngay ở khâu đầu tiên
là khâu sản xuất hoặc khâu nhập khẩu hàng hoá và thu ở mỗi khâu đều
có thể kiểm tra được việc thu nộp thuế ở khâu trước, cho nên hạn chế
được thất thu hơn so với thuế doanh thu.
+ Thuế Giá trị gia tăng được thực hiện thống nhất và chặt chẽ
theo nguyên tắc căn cứ vào hoá đơn mua, bán hàng để khấu trừ số thuế
đã nộp ở khâu trước. Điều đó có nghĩa là, nếu không có hoá đơn mua
hàng ghi rõ số thuế Giá trị gia tăng đã nộp ở khâu trước thì không được
khấu trừ thuế. Vì vậy, Thuế Giá trị gia tăng khuyến khích các cơ sở sản
xuất, kinh doanh khi mua hàng phải đòi hoá đơn, và khi bán hàng phải
có hoá đơn theo đúng quy định. Với nguyên tắc thuế thu ở khâu sau
được khấu trừ số thuế đã nộp ở khâu trước, Thuế Giá trị gia tăng sẽ góp
phần hạn chế được những sai sót, gian lận trong việc ghi chép hoá đơn.
Hoạt động mua-bán hàng hoá, cung ứng lao vụ, dịch vụ có hoá đơn,
chứng từ được đưa vào nề nếp thành thói quen trong nền kinh tế sẽ là
tiền đề cho việc tin học hoá quá trình quản lý sản xuất kinh doanh, hạn
chế bớt những sai sót, tiêu cực và mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh
tế. Trang 19
+ Thuế Giá trị gia tăng phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều
kiện cho Việt nam hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên
thế giới.

dụng và quỹ đầu gồm hoạt động cho vay vốn, cho thuế tài
chính
- Những hoạt động sản xuất hàng hoá dịch vụ thiết yếu. Ví dụ:
Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi chưa qua chế biến hoặc chỉ sơ
chế
- Những hoạt động không mang tính kinh doanh. Ví dụ: Vũ khí,
khí tài phục vụ quốc phòng an ninh
- Những hoạt động cần ưu đãi nhưng ở mức độ vừa phải. Ví dụ:
Hàng miễn thuế bán tại cảng, ga, sân bay
- Những hàng hoá mang tính chất xử lý về mặt kĩ thuật đánh
thuế. Ví dụ: Hàng hoá dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ
đặc biệt.
- Những hàng hoá không mang tính chất gia tăng, tiêu dùng tại
Việt nam hoặc theo những quan hệ kinh tế đối ngoại. Ví dụ:
Hàng chuyển khẩu, quá cảnh
Những hàng hoá thuộc diện chịu thuế Giá trị gia tăng không phải
nộp thuế Giá trị gia tăng đầu vào, nhưng không được khấu trừ, hoàn
thuế GTGT đầu ra.

b. Đối tượng nộp thuế: Các tổ chức cá nhân, sản xuất kinh doanh
hàng hóa dịch vụ chịu thuế Giá trị gia tăng (gọi chung là cơ sở kinh
doanh) và tổ chức cá nhân khác nhập khẩu hàng hoá chịu thuế Giá
trị gia tăng ( gọi chung là người nhập khẩu) là đối tượng nộp thuế
Giá trị gia tăng. Trang 21

+ Đối với hoạt động vận tải, bốc xếp giá tính thuế Giá trị gia tăng
là giá cước vận tải, bốc xếp chưa có thuế Giá trị gia tăng.
+ Đối với hàng hoá, dịch vụ đặc thù được xác định như sau:
Giá tính Giá thanh toán
thuế =
giá trị gia tăng 1+ Thuế suất(%) thuế GTGT

- Thuế suất:

Luật thuế Giá trị gia tăng quy định 4 mức thuế suất:
0%,5%,10%,20%.
Mục đích của việc quy định 4 mức thuế suất này là nhằm khắc
phục nhược điểm của thuế Doanh thu, là một bước giảm bớt đáng kể sự
phức tạp và kém hiệu quả của cơ chế đa thuế suất. Đồng thời thể hiện
chính sách điều tiết thu nhập và hướng dẫn tiêu dùng đối với hàng hoá,
dịch vụ của nhà nước.

+ Mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu.
+ Mức thuế suất 5% áp dụng đối với hàng hoá và dịch vụ thiết
yếu, phục vụ trực tiếp cho sản xuất và tiêu dùng.
+ Mức thuế suất 10% là thuế suất phổ thông áp dụng đối với
hàng hoá dịch vụ thông thường nhằm đảm bảo số thu cho NSNN.
+ Mức thuế suất 20% áp dụng đối với hàng hoá dịch vụ không
thiết yếu mà nhà nước cần điều tiết:
. Vàng bạc đá quý do cơ sở kinh doanh mua vào bán ra. Trang 23
. Khách sạn du lịch ăn uống
. Xổ số kiến thiết.


- Đối tượng và điều kiện áp dụng: Là các cá nhân, tổ chức kinh
doanh chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn, chứng
từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ, các cơ sở kinh
doanh mua bán vàng, bạc, đã quý, ngoại tệ. Giá bán hàng hoá, dịch vụ
ghi trên hoá đơn bán hàng là giá đã có thuế GTGT.
- Cách tính thuế :
Số thuế GTGT GTGT của hàng hoá Thuế suất GTGT
phải nộp = dịch vụ chịu thuế x của hàng hoá DV

Trong đó:
GTGT của hàng hóa Giá thanh toán của Giá TT của hàng hoá
= -
dịch vụ hàng hoá DV bán ra DV mua vào tương ứng

c. Khấu trừ thuế Giá trị gia tăng đầu vào:

+ Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh
doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế Giá trị gia tăng thì được khấu trừ
toàn bộ .
+ Thuế đầu vào của hàng hoá dịch vụ dùng đồng thời cho sản
xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế Giá trị gia tăng và không
chịu thuế giá trị gia tăng thì chỉ được khấu trừ số thuế đầu vào của
hàng hoá dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu
thuế Giá trị gia tăng.

Trích đoạn Quản lý căn cứ tớnh thuế: CễNG TÁC QUẢN Lí THUẾ GIÁ TRỊ GIA QUẢN Lí ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ: QUẢN Lí VỀ CĂN CỨ TÍNH THUẾ:
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status