Tài liệu Tiểu luận “Mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội phân tích vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam” doc - Pdf 99

TIỂU LUẬN
“Mối quan hệ biện chứng
giữa tự nhiên và xã hội phân
tích vấn đề bảo vệ môi trường
hiện nay ở Việt Nam”
0
MỤC LỤC

MỤC
TRANG
PHẦN MỞ ĐẦU 1
 Vấn đề là gì? 1
 Mục đích của đề tài 2
2
PHẦN CHÍNH
Vấn đề là gì?
Trái Đất một hành tinh kì diệu và khác biệt. Nó khác với mọi hành tinh khác
ở chỗ nó có sự sống và nó là ngôi nhà duy nhất của chúng ta. Sự sống trên Trái
Đất đã bắt đầu từ những thành phần nhỏ bé nhất. Sự sống ấy đã phát triển lên
ngày một lớn mạnh. Thế rồi con người xuất hiện. Kể từ lúc ấysự sống trên Trái
Đất đã thực khác trước. Con người đã làm bi
ến đổi thế giới xung quanh họ một
cách mạnh mẽ hơn bất kì sinh vật nào khác cùng tồn tại trên Trái Đất này. Điều
gì đã làm cho họ có được khả năng đó - đó là tư duy để hành động.
Một trong số những vấn đề làm cho con người phải tư duy nhiều nhất, có
lịch sử lâu dài nhất là mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội. Tự nhiên và xã hội
là hai khái niệm lớn nh
ất và gần gũi nhất với con người. Con người đồng thời
tồn tại và là sản phẩm của tự nhiên và xã hội do đó con người quan tâm đến hai
thực thể này là lẽ đương nhiên.
Kể từ khi ra đời quan điểm về mối quan hệ này đã thay đổi khá nhiều.
Trong một thời gian rất dài hai khái niệm này đã được đem đối lập nhau, theo
quan điểm đó tự nhiên và xã hội hoàn toàn tách r
ời nhau, không liên quan đến
nhau. Quan điểm này ngày nay vẫn còn tồn tại trong quan điểm nhiều người đã
dẫn đến nhiều hành vi phá hủy thiên nhiên mà họ không biết rằng đang phá hủy
tương lai chính con em mình.
Quan niệm này quả là một sai lầm lớn, thưc tế và lí luận khoa học đều
chứng tỏ rằng tự nhiên và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nó cùng
nằm trong một tổng thể bao gôm tự nhiên, con ngườ
i và xã hội.
4

PHẦN MỘT
1. Cơ sở lí luận:
Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội đã được con người quan tâm từ rất
sớm, cho đến nay quan niệm về vấn đề này đã trở nên hoàn thiện hơn bao giờ
hết.
1.1. Các khái niệm:
Để bắt đầu chúng ta hãy làm rõ các khái niệm:
Tự nhiên: theo nghĩa rộng tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất vô cùng vô tận.
Theo nghĩa này thì con người vã xã hội loài người cũng là mộ
t bộ phận của tự
nhiên.
Chúng ta xem xét tự nhiên theo nghĩa này.
Xã hội: xã hội là hình thái vận động cao nhất của vật chất, hình, thái này lấy
mối quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm
nền tảng. Theo Mác: "Xã hội không phải gồm các cá nhân người. Xã hội biểu
hiện tổng số mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân với nhau".
1.2. Mối quan hệ biên chứng giữ
a tự nhiên và xã hội:
Tự nhiên và xã hội thực sự có một mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau:
1.2.1 Xã hội - bộ phận đặc thù của tự nhiên:

Như vậy xã hội cũng là một bộ
phận của tự nhiên. Song bộ phận này có tính
đặc thù thể hiện ở chỗ: phần còn lại của tự nhiên chỉ có những nhân tố vô thức
và mù quáng tác động lẫn nhau; còn trong xã hội, nhân tố hoạt động là của con
người có ý thức, hành động có suy nghĩ và theo đuổi những mục đích nhất
định. Hoạt động của con người không chỉ tái sản xuất ra chính bản thân mình
mà còn tái sản xuất ra giới tự nhiên.
1.2.2. T
ự nhiên - Con người - Xã hội nằm trong một chỉnh thể thống nhất:
Con người và xã hội không chỉ là một bộ phận của tự nhiên. Hơn thế tự
nhiên - con người - xã hội nằm trong một chỉnh thể thống nhất.
Theo nguyên lí về tính thống nhất vật chất của thế giới thì thế giới tuy vô
cùng phức tạp, đa dạng và được cấu thành từ nhiều yếu tố khác nhau song suy
đế
n cùng có ba yếu tố cơ bản là tự nhiên, con người và xã hội loài người. Ba
yếu tố này thống nhất với nhau trong một hệ thống tự nhiên - con người - xã
6
hội bởi chúng đều là những dạng thức khác nhau, những trạng thái, đặc tính,
mối quan hệ khác nhau của vật chát đang vận động.
Thế giới vật chất luôn luôn vận động theo những qui luật, tất cả các quá
trình trong tự nhiên, con người và xã hội đều chịu sự chi phối của những qui
luật phổ biến nhất định. Sự hoạt động của các qui luật đó đã nồ
i liền các yếu tố
của thế giới thành một chỉnh thể thống nhất vĩnh viễn và phát triển không
ngừng trong không gian và theo thời gian.
Con người là hiện thân của sự thống nhất giữa tự nhiên và xã hội:
Con người là sản phẩm của tự nhiên. Con người tạo ra xã hội. Con người
vốn tồn tại trong tự nhiên nhưng sau khi tạo ra xã hội thì lại không thể tách rời
xã hội. Để trở thành m
ột con người đích thực con người cần được sống trong

Tự nhiên tác động đế xã hội nhiều như thế nào thĩ xã hội cũng tác động lại
vào tự nhiên như thế.
Trước hết phải khẳng định l
ại rằng xã hội là một bộ phận của tự nhiên như
vậy mỗi thay đổi của xã hội cũng có nghĩa là tự nhiên thay đổi.
Bên cạnh đó xã hội còn tương tác với phần còn lại của tự nhiên một cách
mạnh mẽ. Sự tương tác này thông qua các hoạt động thực tiễn của con người
trước hết là quá trình lao động sản xuất. Lao động là đặc trưng cơ bản đầ
u tiên
phân biệt hoạt động của con người với động vật. Song lao động cũng là yếu tố
đầu tiên, cơ bản nhất, quan trọng nhất tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa xã hội
và tự nhiên. Bởi "lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và
tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm
trung gian, điều tiết và kiểm soát sự trao
đổi chất giữa họ và tự nhiên".
Sự trao đổi chất giữa con người và tự nhiên thể hiện ở chỗ: tự nhiên cung
cấp cho con người điều kiện vật chất để con người sống và tiến hành hoạt động
sản xuất. Cũng chính trong quá trình sử dụng những nguồn vật chất này con
người đã làm biến đổi nó và các điều kiện môi trường xung quanh tức là làm
biến
đổi tự nhiên một cách mạnh mẽ. Hoạt động sống và lao động sản xuất của
con người trong xã hội là vô cùng phong phú nên sự tác động vào tự nhiên
cũng vô cùng phong phú nên sự tác động vào tự nhiên cũng vô cùng phong phú
như khai thác khoáng sản, đánh bắt cá hay kể cả đốt rừng, đẩy trả rác thải ra tự
nhiên
8
Thực tế xã hội luôn tác động tự nhiên. Giờ đây với sức mạnh của khoa học
công nghệ, một lực lượng dân số khổng lồ, sự tác động này trở nên mạnh mẽ
hơn bao giờ hết.
Vấn đề hiện nay là trong quá trình tác động nàycon người cần kiểm tra, điều

sản xuất của mỗi chế độ sản xuất thay đổi thì tính chất của mối quan hệ giữa xã
hội và tự nhiên cũng thay đổi theo.
Ngày nay, khi có khoa học và kĩ thuật phát triển song với chế độ sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa thì con người coi tự nhiên không chỉ là môi trường sống
mà còn là đối tượng chiếm đoạt nhằm mục đích lợi nhuận. Khủ
ng hoảng môi
trường đã xảy ra ở nhiều nơi và đang đe dọa sự sống của nhân loại. Để tồn tại
và phát triển con người phải chung sống hòa bình với thiên nhiên, thay đổi cách
đối xử với tự nhiên mà quan trọng nhất là phải xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa - nguồn gốc sâu xa của việc phá hoại tự nhiên nhằm tối đ
a hóa
lợi nhuận. Nhiệm vụ này là nhiệm vụ của tất cả mọi người.
Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức
và vận dụng các quy luật trong hoạt động thực tiễn:
Mối quan hệ giữa tự nhiên và con người được thể hiện thông qua hoạt động
của con người. Song con người hành động theo suy nghĩ do đó mối quan hệ
giữ
a tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức, trước hết là nhận
thức các quy luật và việc vận dụng nó trong các hoạt động thực tiễn.
Một nhận thức tốt đi kèm với những hành động theo quy luật thì con người
đã tạo ra một thế giới hài hỏa, thuận lợi cho sự phát triển lâu dài của xã hội.
Ngược lại, nếu làm trái quy luật, chỉ khai thác, chiếm đoạ
t những cái có sẵn
trong giới tự nhiên thì sự nghèo nàn đi của giới tự nhiên và việc phá vỡ cân
bằng hệ thống tự nhiên - xã hội là không tránh khỏi. Con người sẽ phải trả giá
và chịu diệt vong.
Việc nhận thức quy luật tự nhiên cần đi kèm việc nhận thức quy luật của xã
hội và đồng thời vận dụng chúng trong thực tiễn.
Thời đại ngày nay khoa học kĩ thuật phát tri
ển, nhận thức đã được nang lên

đời từ những điều kiện tự nhiên như nông nghiệp, lâm nghiệp, khai thác khoáng
sản, đồng th
ời có những ngành ít phụ thuộc tự nhiên hơn cũng ra đời như điện
tử, phần mềm (mới ra đời trong thời gian gần đây).
Tuy nhiên cho đến nay xã hội vẫn phụ thuộc môi trường tự nhiên rất nhiều,
nó có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản xuất, do đó ảnh
hưởng đến năng suất lao động, tốc độ phát triể
n của xã hội.
11
Ta có thể lấy một ví dụ về sự ảnh hưởng của môi trường đối với sự phát
triển của xã hội, hãy xem những sự phụ thuộc vào môi trường tự nhiên từ xa
xưa của các xã hội đã ảnh hưởng đến tận ngày nay như thế nào:
Đây là một đoạn trích từ bài viết "Jared Diamond và vận mệnh của các
nền văn minh" của tác giả Trần Hữ
u Dũng đăng trên tạp chí Tia Sáng số
3, tháng 3, năm 2005:
Trong cuốn "Súng, Vi trùng, và Thép: Định mệnh của các Xã hội Loài
người" (Guns, germs and Steel: The Fates of Human Societies", New York:
Norton, 1997) Jared Diamond viện dẫn những yếu tố môi trường và cấu trúc để
giải thích tại sao các nước Tây phương trổ nên thống trị thế giới. Mục đích của
ông, Diamond bộc bạch ngay từ đầu, là nhằm triệt hạ những ý kiến cho rằng
chủng tộc, văn hóa và truyền thống có
ảnh hưởng quyết định đến những khác
biệt về công nghệ của những xã hội khác nhau, trên những châu lục khác nhau,
trong suốt lịch sử.
Diamond tóm tắt phát hiện của ông như sau: Lịch sử của các nhóm dân khác
nhau không phải vì sự khác biệt sinh học (biological) giữa các sắc dân mà vì sự
khác biệt về môi trường sinh sống ngay từ đầu. Nói cách khác, lý do căn bản
của sự bất bình đẳng trong thế giới ngày nay bắt nguồn từ
rất xa trong quá khứ.

không có (đặc biệt, tại sao các vi trùng của dân châu Âu lại độc địa đối vớ
i thổ
dân châu Mỹ thay vì ngược lại?). Càng truy gặng, càng lùi ngược về quá khứ,
Diamond càng thấy các yêu tố môi trường là quan trọng.
Cụ thể, Diamond phân biệt bốn cách khác nhau về môi trường:
1. Khác nhau thứ nhất giữa các đại lục là về các giống thảo mộc và động
vật hoang dã mà con người có thể đem về nuôi trồng. Ông lý luận rằng
khả năng nuôi trồng là quyết định khả năng có lương thực thặng d
ư, và
chỉ khi lương thực có thặng dư thì xã hội mới "nuôi" được một thành
phần
"chuyên viên" giúp xã phát triển những lĩnh vực như công nghệ, văn hóa,
v.v Chính những phát triển này sẽ tạo cho xã hội liên hệ những ưu thế
chính trị và quân sự so với láng giềng.
2. Khác nhau thứ hai là về những yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch (cả
người lẫn vật)
trong cùng một lục địa. Những sự chuyển dịch này là dễ
13
dàng nhất ở lục địa Âu Á, bởi vì hướng chính của lục địa này là đông
tây, tương đói ít ngăn trở môi sinh và địa lý.
3. Khác nhau thứ ba là về những yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch giữa
các lục địa. Vì những ngăn cản địa lý, nhiều lục địa không nhận được
những công nghệ hay thú vật, thảo mộc từ các lục đị
a khác. Song,
Diamond cũng nhìn nhận, sự biệt lập này lắm khi cũng có lợi vì nó
khuyến khích phát triển những giống vật nuôi trồng tại địa phương, cũng
như các công nghệ bản địa.
4. Cái khác nhau cuối cùng là về dân số và diện tích đất đai. Lục địa càng
rộng càng đông dân thì càng có nhiều người phát minh. Hơn nữa, trong
một lục địa như vậy sẽ có nhiều xã hội tranh đua hơn, r

nhiều nghìn năm lịch sử thì vai trò của môi trường và địa lí thực có tính quyết
định.
Vài nét về Jared Diamond: Jared Diamond (người Mỹ, sinh năm 1937) hiện
là giáo sư địa lí của trường Đại học California tại Los Angeles (UCLA). Tuy
ông có bằng tiến sĩ về sinh lí học, nhưng ki
ến thức của ông bao trùm hầu như
mọi ngành, từ kiến trúc, ngôn ngữ, khảo cổ, đến động vật học, y học. Ông cũng
không phải là một học giả "tháp ngà": ông đã đi khắp châu lục, thậm chí sống
nhiều năm ở những nơi "gần như tận cùng thế giới" (như đảo Tân Ghi-nê, đảo
Phục Sinh). Hai cuốn sách của ông (một cuốn ra năm 1997, đoạt giả
i Pulitzer,
thuộc hàng "best seller", và một cuốn vừa ra cuối năm 2004) đã đặt ông vào
hàng ngũ những nhà tư tưởng hiện đại có nhiều ảnh hưởng nhất ở Mỹ.
Bài trích trêm được đưa ra chỉ nhằm đưa thêm một ý kiến khẳng định tầm
quan trọng của môi trường tự nhiên với xã hội chứ không có ý định bác bỏ vai
trò của con người.
Sự bùng nổ dân số:
Khi nói đến vấn
đề môi trường, tự nhiên và xã hội có một điểm ta không thể
không đề cập, đó là sự bùng nổ dân số.
Mỗi cá thể người đều có những nhu cầu của riêng nó, nó cần tiêu thụ các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, và gây ra các ảnh hưởng nhất định đến môi
trường. Khi dân số phát triển ngày càng cao thì như cầu với tự nhiên càng lớn;
những nhu cầu thiết yếu như ăn mặc, thực phẩm, thuốc men, nước s
ạch ngày
càng thiếu thốn. Đồng thời nhiều vấn đề môi trường cũng nảy sinh như ô nhiễm
15
nguồn nước, rác thải đặc biệt là việc tăng cường khai thác các nguồn đến cạn
kiệt các nguồn tài nguyên nhằm đáp ứng các nhu cầu của con người. Áp lực lên
môi trường ngày càng lớn và thực sự khả năng chịu đựng của môi trường là có

Đơn vị tiền tệ : đồng
Diện tích : 329.566 km2
Dân số ước tính (năm 1998) : 78 triệu người
Tốc độ tăng trưởng dân số : 2,3%
Mật độ dân cư : 210 người/km2
Thời gian tăng gấp đôi số dân : 31 năm
Diện tích bảo tồn trên tổng số diện tích : 7 %
Tổng số diện tích được bảo tồn : 22.976 km2
Số khu vực được bảo tồ
n : 101 Nguồn: UNFPA, Cục kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn

Các nguồn tài nguyên Việt Nam:
2.1.1. Tài nguyên đất Việt Nam:
Quỹ đất của việt Nam có tổng diện tích hơn 33 triệu ha, tổng diện tích đất
bình quân đầu người là 0,6 ha (đứng thứ 159 trên thế giới).
Tổng số có hơn 16 triệu ha đất feralit, 3 triệu ha đất phù sa, đất mùn vàng đỏ
hơn 3 triệu ha, đất xám bạc màu hơn 3 triệu ha Tổng tiềm năng dự trữ quỹ đất
nông nghiệp của Việt Nam là 10 - 11 triệ
u ha, trong đó gần 7 triệu ha được sử
dụng vào nông nghiệp, 3 trên 4 trong số đó là trồng cây hàng năm.
Mặn hóa, chua phèn hóa, bạc màu hóa, cát lấn , đất trũng úng nước, đất dễ
bị thoái hóa, đất khó phục hồi là những vấn đề cần phải lưu ý.
2.1.2. Tài nguyên nước Việt Nam:
Việt Nam có khoảng 2345 con sông (dài từ 10 km trở lên).
Tổng dòng chảy của hệ thống sông Cửu long là 520 km3 /năm, của sông
Hồng và sông Thái bình 120 km3/năm.
Nước ng

triệu dân có cuộc sống gắn với rừng.
Rừng cho vật liệu xây dựng, năng lượng, dược liệu, gien động vật hoang dã.
Rừng ngập măn là cái nôi của tôm cá biển, bảo tồn sinh học, chống sói mòn
đất, điều hòa khí hậu, tăng nước ngầm, chống lũ lụt, xâm thực. Thả
m thực vật
phong phú của rừng Việt Nam đã tạo cho lãnh thổ Việt Nam có một hệ động
vật và nguồn tài nguyên động vật vô cùng phong phú, đa dạng và đày sự hấp
18
dẫn. Chính nguồn tài nguyên động vật này đã từng là nguồn cung cấp thực
phẩm, là
nguồn dược liệu độc đáo, là nguyên liệu chế biến ra các mặt hàng mỹ nghệ
trang điểm cho cuộc sống.
Tuy nhiên tài nguyên rừng Việt Nam lại chưa được khai thác hợp lý. Trung
bình hàng năm Việt Nam mất 200 ngàn ha rừng. Độ che phủ rừng từ 37% năm
1943, năm 2000 còn khoảng 20%(66.420 km2).
Về đa dạng sinh họ
c, Việt nam có độ đa dạng sinh học cao:
Về thực vật: Có khoảng 12.000 loài cây có mạch, 10% là đặc hữu. 800 loài
rêu, 600 loài nấm lớn.2300 loài dùng làm lương thực, thực phẩm, thức ăn cho
gia súc, lấy gỗ, tinh dầu,1500 loài cây làm dược liệu. Ở dưới nước ngọt có hơn
1000 loài tảo. Nhiều loài có giá trị dinh dưỡng cao. Ở biển cũng có hơn 1000
loài tảo.
Giới động vật cũng vô cùng phong phú, đa dạng về thành phầ
n loài
Bảng so sánh thành phần loài động vật ở Việt Nam so với thế giới (chỉ tính
một số nhóm động vật ở bậc loài)
STT Nhóm động vật Số loài ở Việt
Nam
Số loài trên thế
giới

2.1.6. Vấn đề môi trường ở Việt Nam:
Do chiến tranh tàn phá, sự gia tăng dân số nhanh, sự phát triển của các
ngành kinh tế, tài nguyên môi trườngViệt Nam đã bị phá hủ
y nhiều. Thực sự
Việt Nam đang gặp nhiều vấn đề về môi trường.
Ngày nay Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa - hiên đại hóa đất
nước, nền kinh tế mới chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Sự phát triển công
nghiệp với những công nghệ ít thân thiện với môi trường đồng thời với một hệ
thống chính sách và thực hiện ít hiệu quả trong việc bảo vệ môi trườ
ng đang
làm cho môi trường Việt Nam trở nên ô nhiễm hơn. Cơ chế thị trường cùng với
một bộ phận nhân dân thiếu hiểu biết sẵn sàng khai thác đến cạn kiệt mọi
nguồn tài nguyê vì lợi nhuận. Đói nghèo cũng đẩy nhiều người vào cảnh phải
tàn phá thiên nhiên vì miếng cơm manh áo hàng ngày. Ngay cả du lịch sinh
thái, khi được tổ chưc không hợp lí cũng phá hủy cảnh quan môi trường. Rác
thải sinh hoạt, công nghiệp, khói b
ụi ngày càng nhiều hơn và thực sự rất khó
giải quyết.
Bảy vấn đề môi trường gay cấn của Việt Nam:
1. Nạn phá rừng:
20
Năm 1943 ta có 37% đất phủ xanh
Năm 1975 " 29,1% "
Năm 1983 " 23,6% "
Đối với vùng nhiệt đới dưới 30% là khủng hoảng môi trường. Chế
độ thủy văn thay đổi g khí hậu thay đổi g cảnh quan thay đổi g suy thoái
độ đa dạng sinh học.
2. Suy giảm tài nguyên đất: Giảm diện tích bình quân đầu người là do dân
số tăng.
Năm 1940 Việt Nam có 0,2 ha/ người

2.2. Nhìn ra thế giới - Nh
ững bài học:
2.2.1. Vấn đề môi trường trên thế giới:
Rất nhiều nước trên thế giới cũng gặp những vấn đề về môi trường như Việt
Nam. Trung Quốc cùng ở trong giai đoạn phát triển như Việt Nam song có đi
trước Việt Nam một thời gian, cho đến nay những vấn đề môi trường ở Trung
Quốc là rất nan giải: ô nhiễm nước, rừng không còn, khói bụi
Nhiều nơ
i khác đã gặp thảm họa ngay từ bây giờ:
Biển Aral là một điển hình về thảm họa sinh thái do con người gây ra. Biển
Aral ở Trung Á - một nơi ô nhiễm nhất trên Trái Đất. Một thời nổi tiếng la Biển
Xanh, đã từng là hồ nước ngọt lớn thứ tư thế giới, nhưng chỉ trong vòng 30
năm, nó đã bị thu hẹp tới hơn một nửa diện tích và nước c
ủa nó trở nên mặn
như nước biển. Khi nguồn nước cạn kiệt và bốc hơi, để lại trong lòng hồ3,6
triệu ha đất bị ô nhiễm và những trận bão dữ dội lại quét lượng đất ô nhiễm này
đổ sang các vùng đất xung quanh. Thực phẩm giờ đây khan hiếm, tỉ lệ tử vong
trẻ sơ sinh đang tăng lên và tuổi thọ của người dân vùng này, theo một số
chuyên gia, đang giả
m xuống 20 năm.
Thảm họa sinh thái này là do qua nhiều thập kỉ biển Aral không được chú ý
đến và bị quản lí sai lầm, như khai thác nước quá mức do hệ thống tưới tiêu, để
các chất thải chảy từ sông ra biển một cách bừa bãi, sử dụng một lượng nước
lớn cho thủy điện. Ngày nay, Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Thế Giới, Liên hiệp
châu Âu và một số nước khác đang huy động nỗ lực qu
ốc tế để phục hồi cân
bằng sinh thái của vùng biển Aral, bổ sung nguồn tài nguyên và cấp bách giải
22
quyết các vấn đề như sức khỏe cộng đồng, nước, thuốc trừ sâu và những vấn đề
khẩn cấp khác trong cuộc chạy đua với thời gian.

riêng lẻ, mà nó tác động đến toàn thế giới. Giờ
đây những vấn đề môi trường đã
mang tính toàn cầu. Muốn giải quyết nó là không dễ và cần có sự phối hợp của
nhiều quốc gia.
Thay đổi khí hậu là một vấn đề toàn cầu. Các nhà khoa học cảnh báo Trái
Đất đang nóng lên, và nếu tình trạng này không được giải quyết thì sẽ mang
23
đến một thảm hoạ mà con người không thể tưởng tượng. Tuy nhiên có thể phác
thảo thảm họa này như sau: Trái Đất nóng lên g băng 2 cực tan ra g các dòng
hải lưu thay đổi g các vùng đất thấp ngập trong nước, khí hậu biến đổi g mùa
màng thất bát, bệnh dịch, mất sinh cảnh, mất đa dạng sinh học g khủng hoảng
lương thực g khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu: đó là thảm họa. Songcó
nhiều ngườ
i vẫn không công nhận Trái Đất đang nóng lên, bởi nếu nhìn từng
năm thì có năm nóng hơn nhưng cũng có năm lạnh hơn. Phải nhìn vào xu thế
của hàng chụ c nămmới thấy được nhiệt độ đang tăng lên. Việc giải quyết vấn
đề naỳ cũng cần có thời gian, bởi khí hậu có sức ỳ lớn. Ngay cả khi lượng khí
thải gây hiệu ứng nhà kính bây giờ được chấ
m dứt một cách thần kỳ thì ảnh
hưởng của việc xả khí thải từ trước vẫn còn làm tăng nhiệt độ và mực nước
biển trong những thế kỉ tới. Bên cạnh đó còn có nhiều thảm họa toàn cầu khác
cũng đang đợi chúng ta.
Mà với tốc độ tăng trưởng khiêm tốn là 3% một năm, nền kinh tế toàn cầu
trong 50 năm tới sẽ có quy mô gấp bố
n lần hiện nay. Liệu nền kinh tế to lớn đó
có tạo ra ít căng thẳng về xã hội và môi trường hơn một nền kinh tế nhỏ bé hơn
nhiều hiện nay không?Hay liệu chúng ta có giải quyết được vấn đề hay không?
Câu trả lời là có và lối thoát là phát triển bền vững:
Phát triển bền vững (sustainable development) là một khái niêm mới ra
đời từ Hội nghị về môi trường tại Rio de Zanero năm 1992 có ý nghĩa:


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status