Tiểu luận Đánh giá khả năng áp dụng lý thuyết gia tốc đầu tư tại Việt Nam - pdf 11

Download Tiểu luận Đánh giá khả năng áp dụng lý thuyết gia tốc đầu tư tại Việt Nam miễn phí



Cơ cấu nguồn vốn huy động đã có bước chuyển dịch quan trọng. Điểm nổi bật nhất là sự tăng lên mạnh mẽ của đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân, với tỷ trọng trong tổng số vốn đã lên đến 32,4%, cao hơn mười điểm phần trăm so với cách đây 5 năm. Đó là kết quả của việc thực hiện Luật Doanh nghiệp. Một điểm nổi bật khác là đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp (FDI) với tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung tính từ năm 1988 đến nay đạt trên 66 tỉ USD, với số vốn thực hiện đạt được một nửa. Nguồn vốn này đã góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp ngân sách. Đã có 45 nước và định chế tài chính quốc tế đã cam kết với số vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) lên đến 30 tỉ USD và số vốn giải ngân đạt khoảng 16 tỉ USD. Nguồn vốn này đã được ưu tiên sử dụng để hỗ trợ phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Nhiều công trình quan trọng trong các lĩnh vực giao thông vận tải, năng lượng, thủy lợi quy mô lớn, giáo dục đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, chăm sóc sức khỏe. đã được xây dựng và nâng cấp. Nguồn vốn này đã góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ xây dựng pháp luật, cải cách hành chính, xây dựng chính sách và cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tỷ trọng nguồn vốn Nhà nước tuy đã giảm nhưng vẫn còn chiếm quá nửa tổng vốn đầu tư, có tác dụng hình thành các công trình trọng điểm của quốc gia, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, vùng mà các nguồn vốn khác không muốn đầu tư, có tác động là vốn mồi để thu hút các nguồn vốn khác.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-17150/
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
2. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng này được thể hiện ở quy mô và tốc độ tăng trưởng. Quy mô phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít còn tốc độ tăng trưởng được dùng để so sánh sự gia tăng giữa các thời kỳ. Người ta thường xác định tăng trưởng kinh tế thông qua các chỉ tiêu GDP (tổng sản phẩm quốc nội), GNP (tổng sản phẩm quốc dân) và GNI (thu nhập bình quân đầu người).
Đầu tư là một trong những yếu tố được tính đến trong tăng trưởng kinh tế, dựa vào công thức tính GDP sau:
GDP = S + I + G + (X – IM)
Trong đó: S: tổng tiết kiệm trong nền kinh tế
I: đầu tư
       G: chi tiêu của chính phủ
       X: xuất khẩu
       IM: nhập khẩu.
  Bản chất của tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế còn đầu tư phát triển không những làm gia tăng tài sản của nhà đầu tư mà còn trực tiếp làm tăng tài sản của nền kinh tế quốc dân, chẳng hạn khi nhà đầu tư xây dựng một nhà máy thì nhà máy đó không những là tài sản của nhà đầu tư mà còn là tiềm lực sản xuất của cả nền kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Như vậy đầu tư phát triển chính là một yếu tố không thể thiếu đối với quá trình tăng trưởng của một nền kinh tế.
3. Khái niệm về phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế là một khái niệm rộng hơn tăng trưởng. Nếu tăng trưởng được xem là quá trình biến đổi về lượng thì phát triển là quá trình biến đổi cả về lượng và chất của nền kinh tế. Đó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của cả hai vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Phát triển kinh tế bao gồm có tăng trưởng, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tiến bộ (thường xét đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành: sự gia tăng tỉ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp), sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội (xóa bỏ cùng kiệt đói, suy dinh dưỡng, tăng tuổi thọ bình quân, tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, nước sạch của người dân, đảm bảo phúc lợi xã hội, giảm thiểu bất bình đẳng trong xã hội…).
Một mặt trái của đầu tư phát triển, bên cạnh việc làm tăng sản lượng của nền kinh tế, đầu tư phát triển còn gây nên một số tác động tiêu cực như ô nhiễm, suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Hiện nay, ở nhiều quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, người ta đã chú ý tới những ảnh hưởng tiêu cực đến tương lai do tăng trưởng nhanh gây ra. Trên thế giới đã xuất hiện khái niệm mới về phát triển, đó là phát triển bền vững. Theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới WB: “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Nói cách khác, phát triển bền vững là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ, hợp lý cả về ba mặt: tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam .
PHẦN II : PHÂN TÍCH LÝ THUYẾT GIA TỐC ĐẦU TƯ
Chúng ta đều biết rằng đầu tư là một yếu tố nằm trong tổng cầu của nền kinh tế. Trong khi đầu tư nhỏ hơn rất nhiều so với tiêu dùng trong GDP, nhưng nó lại rất quan trọng bởi vì đây là thành tố trong GDP biến động phát triển nhất và phản ánh rõ nét nhất hình mẫu biến động theo chu kỳ mà các nền kinh tế thị trường phải đối mặt. Trong bài tiểu luận này chúng ta phải nghiên cứu ảnh hưởng của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế nhưng dưới góc độ vận dụng các lý thuyết kinh tế về đầu tư để giải thích . Do đó chúng ta phải nghiên cứu vấn đề trên phương diện lý luận, vận dụng các lý thuyết đầu tư là chủ yếu. Có rất nhiều lý thuyết kinh tế về đầu tư, mỗi lý thuyết nghiên cứu một khía cạnh khác nhau của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Dưới đây là phân tích về lý thuyết gia tốc đầu tư.
1. Tư tưởng trung tâm của mô hình gia tốc đầu tư .
Nếu số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ giữa việc gia tăng đầu tư với gia tăng sản lượng hay việc gia tăng đầu tư có ảnh hưởng như thế nào đến sản lượng. Như vậy đầu tư xuất hiện như một yếu tố của tổng cầu. Theo Keynes, đầu tư cũng được xem xét dưới góc độ tổng cung, nghĩa là mỗi sự thay đổi của sản lượng làm thay đổi đầu tư như thế nào. Các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư để đưa mức tư bản đạt mức mong muốn. Lượng tư bản mong muốn phụ thuộc vào mức sản lượng là điều dễ dàng chấp nhận được. Khi mức sản lượng cao hơn, các hãng có nhu cầu lớn hơn về tư bản vì tư bản là một trong nhiều nhân tố để tạo ra sản lượng. Tư tưởng trung tâm của mô hình gia tốc dựa trên mối quan hệ đơn giản này.
2. Nội dung của lý thuyết gia tốc đầu tư .
Mô hình gia tốc giả thiết rằng lượng tư bản mong muốn là bội số của mức sản lượng :
K dt= α .Yt                          α>0   (1)
Ở dạng đơn giản nhất của mô hình gia tốc, đầu tư ròng đúng bằng chênh lệch giữa lượng tư bản mong muốn  với lượng tư bản hiện có vào cuối thời kì trước. Nếu tạm thời bỏ qua hao mòn tư bản trong quá trình sử dụng, chúng ta có mối liên hệ sau:
I n,t = K dt - K dt -1                 (2)
Lượng tư bản có được vào cuối thời kỳ trước chính là lượng tư bản mong muốn phụ thuộc vào thu nhập của thời kỳ đó.
Kt-1 = Kt-1d = α .Yt-1                   (3)
Vì vậy, chúng ta có thể viết l ại phương trình (2) như sau:
In,t = K dt - Kt-1= α .Yt   - α .Yt-1= α.( Yt    - Yt-1    )
In,t= α.Δ Yt                                      (4)
Mức đầu tư phụ thuộc vào sự thay đổi của sản lượng.
Dạng đơn giản này cho ta thấy một đặc điểm quan trọng của mô hình gia tốc. Từ  phương trình (1), α có thể được coi là tỷ lệ giữa mức tư bản mong muốn so với sản lượng:
α =Ktd / Yt                         (5)
Ví dụ, giả sử rằng tỷ lệ này là 2. Trong trường hợp này, cứ mỗi đồng sản lượng thay đổi thì mức bổ sung tương ứng là 2 đồng. Trong bối cảnh đó, đầu tư sẽ biến động rất mạnh trong chu kỳ kinh doanh. Theo mô hình giao điểm của Keynes cho thấy sự thay đổi của đầu tư có tác dụng số nhân đến sản lượng. Vì vậy cùng với hiệu ứng số nhân, lý thuyết gia tốc đơn giản chỉ có thể giải thích sự biến động theo chu kỳ của sản lượng. Một cú sốc đối với sản lượng sẽ làm thay đổi mức đầu tư và sự thay đổi này sẽ làm mức sản lượng cân bằng thay đổi thông qua hiệu ứng số nhân, và tác động thêm vào đầu tư thông qua hiệu ứng gia tốc. Tuy nhiên cũng giống như lý thuyết đơn giản về số nhân của Keynes, chúng ta cần điều chỉnh lý thuyết gia tốc về đầu tư trước khi có thể sử d
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status