Vai trò của IMF trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ - pdf 12

Download Khóa luận Vai trò của IMF trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ miễn phí



mục lục
lời mở đầu 1
I-/ Một vài đặc điểm và mục đích của IMF. 2
II-/ Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á. 3
1-/ Một số diễn biến. 3
2-/ Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng. 4
2.1. Nguyên nhân bên trong. 4
2.1.1. Thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái không linh hoạt. 4
2.1.2. Dựa quá nhiều vào nợ - đặc biệt là nợ ngắn hạn. 5
2.1.3 Sự hình thành bong bóng kinh tế. 5
2.1.4. Sự yếu kém của hệ thống tài chính ngân hàng. 6
2.2. Nguyên nhân bên ngoài. 6
2.2.1. Tự do hoá dòng chảy tư bản. Toàn cầu hoá gây khủng hoảng. 6
2.2.2. Đầu cơ quốc tế. 7
III-/ Các biện pháp khắc phục khủng hoảng của imf 7
IV-/ Đánh giá về vai trò của IMF trong cuộc khủng hoảng 11
1-/ Một số đánh giá. 11
1.1-/ Tích cực. 11
1.2-/ Tiêu cực 12
1.2.1-/ IMF đã không dự đoán được cuộc khủng hoảng 12
1.2.2-/ IMF đã có những biện pháp khắc phục sai lầm hay quá tay. 13
1.2.3-/ IMF hoạt động vì lợi ích của các cường quốc, đặc biệt là Mỹ. 15
2-/ Những bài học từ cuộc khủng hoảng của IMF. 16
Kết luận 17
Danh mục tài liệu tham khảo 18
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-28167/
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

u chính phủ.
Khi quốc gia nào gặp khó khăn trong vấn đề trả nợ nước ngoài thì IMF đề ra “chương trình điều chỉnh cơ cấu” bằng cách giảm phát nền kinh tế và giảm chi tiêu của chính phủ nhằm giúp các nước này lấy lại sự kiểm soát đối với nền kinh tế. Mặc dù có những vấn đề khó khăn với nền kinh tế quốc gia nhưng khi nền kinh tế được “điều chỉnh” tìh mọi thứ sẽ trở nên tốt hơn. Nhưng trên thực tế chương trình này đòi hỏi chính phủ nước đi vay phải giảm chi tiêu dịch vụ, tư nhân hoá, giảm thuế nhập khẩu, giảm trợ cấp chính phủ. Điều này làm các công ty nước ngoài dễ dàng kiểm soát nền kinh tế nước đi vay.
II-/ Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á.
1-/ Một số diễn biến.
Ngày 2/ 7/ 1997 sau khi tung ra gần 24 tỷ USD để giữ giá đồng Baht nhưng không thành công, ngân hàng trung ương Thái Lan buộc phải tuyên bố thả nổi đồng Baht mở đầu cho cuộc khủng hoảng tài chính châu á. Trong điều kiện liên kết kinh tế giữa các nước ASEAN hiện nay khá chặt chẽ việc đồng Baht giảm giá lập tức tác động đến đồng tiền các nước khác trong khu vực. Cuộc khủng hoảng lan rộng sang Malaysia, Philippines rồi Indonesia và Singapore sau đó lan tiếp sang Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông và rồi cả nước Nga gây nên những khủng hoảng trầm trọng trên thị trường tài chính nước này, các đồng tiền nước này bị mất giá chóng mặt. Các nhà đầu tư nước ngoài từ Âu Mỹ rút khỏi thị trường châu á nói chung và ASEAN nói riêng để chuyển sang các khu vực khác có vẻ ổn định hơn (chu chuyển vốn vào các nước đang phát triển ở châu á giảm hơn 60 tỷ USD và chỉ còn 40 tỷ USD trong năm 1997). Cuộc khủng hoảng làm phá sản hàng vạn các công ty khắp châu á trong đó có các tập đoàn lớn trong nhiều lĩnh vực như ngân hàng, điện tử và công nghiệp. Các nước bị ảnh hưởng nặng bởi cuộc khủng hoảng hầu hết đều có mức tăng trưởng âm và có tỷ lệ thất nghiệp cao. Đến 6/ 4/ 1998 IMF cho rằng thời điểm tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu á đã qua. Nhưng cuộc khủng hoảng lại tiếp tục với nhiều diễn biến khó lường trước được cuốn các quốc gia trong khu vực châu á vào những nỗ lực vượt bậc. Hội nghị các thứ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng nhà nước nhóm G7 và 11 nước châu á - Thái Bình Dương tại Tôkyô thảo luận về việc ổn định đồng Yên và ngăn chặn cuộc khủng hoảng tiền tệ lần thứ 2 tại khu vực và tìm cách khôi phục nền kinh tế Nhật Bản đang thoái chưa từng có trong 23 năm.
Các dấu hiệu hồi phục kinh tế bắt đầu xuất hiện từ tháng 4/ 1999, chấm dứt một thời gian dài mà chỉ nghe thấy tin tức về sự sụt giá của các đồng tiền, tăng trưởng âm...Tại hôi nghị cấp cao ASEAN + 3 diễn ra ở Manila (Philippines) các nhà lãnh đạo châu á tuyên bố cuộc khủng hoảng kinh tế đã qua. Sự hồi phục diễn ra phát triển nhất ở Malaysia, Singapore, Hàn Quốc và Thái Lan trong đó Hàn Quốc dẫn đầu với mức tăng GDP 9% so với mức âm 6% năm 1998. Tốc độ tăng trưởng GDP của các quốc gia ASEAN năm 1999 đạt 3% so với âm 7,5% năm 1998. Đặc biệt là lòng tin của các nhà đầu tư vào châu á tăng với số vốn đầu tư tăng nhanh.
2-/ Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng.
2.1. Nguyên nhân bên trong.
2.1.1. Thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái không linh hoạt.
Nhiều nước mới nổi ở châu á đã gắn đồng tiền của mình với đồng đôla Mỹ và đồng thời thực hiện chính sách nới lỏng việc kiểm soát trao đổi buôn bán ngoại tệ bằng cách cho phép người dân trong nước thực hiện các khoản vay bằng đồng USD Mỹ và người nước ngoài buôn bán đồng nội tệ khá tự do. Việc thực hiện chế độ tỷ giá cố định và nới lỏng kiểm soát ngoại tệ này nhằm khuyến khích kinh tế phát triển cao từ khía cạnh tài chính bằng cách khuyến khích dòng chảy tư bản bên ngoài vào và tạo ra các cơ hội đầu tư nhiều hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên dòng chảy tư bản lớn vào khu vực đã tạo ra sự chênh lệch tỷ giá hối đoái. Việc giá các đồng nội tệ được định giá cao hơn giá trị thực làm cho sức cạnh tranh của các nền kinh tế này bị suy giảm so với các quốc gia khác đồng thời bị chịu các đợt đầu cơ vào đoán các đồng tiền này sẽ bị giảm giá vào tương lai gần.
2.1.2. Dựa quá nhiều vào nợ - đặc biệt là nợ ngắn hạn.
Các nước Đông Nam á là những nước xuất khẩu lớn bao gồm cả hàng chế tạo và có thể dễ dàng bù đắp cho nợ nước ngoài lớn. Tuy nhiên là chỉ có thu nhập từ xuất khẩu thì chưa đủ để trả nợ đặc biệt là vào những năm đầu thập kỷ 90 xuất khẩu của các nước này gặp khó khăn do thị trường đã bão hoà sức cạnh tranh giảm. Khi dự trữ ngoại tệ không đủ lớn để trả nợ gốc và lãi đến hạn thì các nước này đã tuyên bố tình trạng khủng hoảng cần sự giúp đỡ quốc tế.
Nợ nước ngoài và dự trữ ngoại hối (đến cuối năm 1997)
Đơn vị: tỷ USD
Nước
Tổng số nợ
Nợ ngắn hạn (trong tổng số nợ)
Dự trữ ngoại hối
Thái Lan
91,7
65
27,0
Indonesia
137,4
60
16,6
Hàn Quốc
154,4
70
20,4
Malaysia
44,1
55
21,7
2.1.3 Sự hình thành bong bóng kinh tế.
Trong nền kinh tế nội địa khu vực phi hàng hoá bao gồm các ngành bất động sản và xây dựng đã dần trở nên có khả năng kiếm được nhiều lợi nhuận so với khu vực kinh doanh hàng hoá cũng chính vì vậy mà các nguồn lực đã được phân bổ nhiều hơn vào khu vực phi hàng hoá này. Trong thời kỳ này các khoản đầu tư mới và trợ giúp về vốn thường tập trung vào lĩnh vực bất động sản và các ngành phi kinh doanh hàng hoá khác. Trong khi đó sự yếu kém về quản lý của các tổ chức tài chính và sự nơi lỏng trong kiểm tra và giám sát của các tổ chức này đã góp phần vào sự phát triển quá mức của khu vực phi thương mại. Kết quả là những khoản vốn được tập trung vào lĩnh vực không sinh lời đã trở thành những khoản nợ khó đòi hay không thể đòi được. Tổng mức nợ khó đòi của các nền kinh tế ASEAN đã lên tới 130 - 140% GDP. Khi đồng tiền bị phá giá khu vực bất động sản bị sụp xuống thì bản cân đối của các công ty tài chính các ngân hàng bị phơi ra, vỡ nợ lan nhanh.
2.1.4. Sự yếu kém của hệ thống tài chính ngân hàng.
Các ngân hàng thuộc các nước ASEAN đã chi và đầu tư mà không tính đến khả năng cạnh tranh với nước ngoài đã đảm bảo và khích lệ các công ty trong nước vay không cần giới hạn dùng các quan hệ “tín chấp” thay cho các quan hệ thế chấp tài sản quá lạc quan khi đánh giá cao vai trò của các đồng nội tệ...chỗ mạnh và đồng thời cũng là chỗ yếu của các nước Đông á là mối liên hệ giữa chính quyền ngân hàng và doanh nghiệp. Mối liên kết chặt chẽ này nhằm vào việc thực hiện các mục tiêu và đề án phát triển lớn lao do nhà nước đề ra. Chính sự liên kết này làm cho các thể chế kiểm soát và đánh giá tài chính nhiều khi không cần thiết hay trở nên mất hiệu lực, thông tin bị nhiễu hay không nhiều thì chính quyền cũng bằng mọi cách vực dậy các doanh nghiệp trên đà phá sản. Do hậu quả của những yếu kém đó các thể chế tài chính trong nước phải gánh chịu những rủi ro lớn tập trung do đầu tư vào những bong bóng kiểu như bất ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status