Tiểu luận Kinh tế đối ngoại của Việt Nam và ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế - pdf 12

Download Tiểu luận Kinh tế đối ngoại của Việt Nam và ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế miễn phí



Năm 1987, Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài được ban hành. Đến nay, khoảng 70 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới có hoạt động đầu tư vào Việt Nam. Tính đến hết năm 2003, tổng số 4193 dự án nước ngoài tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký trên 40,2 tỷ USD. Vốn FDI thực hiện khoảng 22,9 tỷ USD. Khu vực có vốn ĐTNN đóng góp hơn 10% GDP của Việt Nam, chiếm khoảng 18% tổng vốn đầu tư toàn xã hội (giảm so với mức 25% trong thời kỳ 1990-2000), 27% kim ngạch xuất khẩu cả nước và tạo việc làm cho khoảng 472 nghìn người.
Đầu tư nước ngoài trực tiếp không chỉ tăng thêm nguồn vốn mà quan trọng hơn là giúp chúng ta nâng cao kỹ thuật quản lý, trình độ công nghệ, đào tạo nghề, thị trường và giải quyết một phần vấn đề việc làm.
Đầu tư nước ngoài trong thời gian gần đây suy giảm mạnh và trong tương lai vẫn còn khó khăn do cạnh tranh trong khu vực, cơ cấu FDI ở nước ta cũng thay đổi, phải chuyển mạnh sang sản xuất và giá cả đầu vào ở nước ta tăng nhanh và cao trong khi đó hạ tầng kinh tế, xã hội chậm được cải thiện.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-29841/
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

đặc trưng bởi: sự sụt giảm giá cổ phiếu trên các thị trường chủ chốt do hàng loạt tập đoàn kinh tế lớn phá sản; đồng USD mất giá so với đồng Euro và Yên; nhiều nền kinh tế đứng trước nguy cơ giảm phát (lạm phát của các nước phát triển: 1,4%, các nước đang phát triển là 5,6%); nhiều nước áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng để kích thích nền kinh tế và kiềm chế giảm phát. Bất ổn tài chính - tiền tệ ở nhiều nước Mỹ Latinh....
- Đồng Euro liên tục lên giá so với đồng USD, tới gần 30% trong vài năm gần đây do kinh tế Mỹ ảm đạm và các chính sách hạ lãi xuất kích thích đầu tư và giảm giá đồng đô la yếu để tăng xuất khẩu. Chính sách này của Mỹ đã có tác động xấu tới kinh tế Tây Âu. Theo một số tính toán nếu đồng Euro lên giá 10% so với đồng USD sẽ làm giảm 1,5% tốc độ tăng trưởng kinh tế khu vực đồng Euro trong 5 năm. Đến nay, đồng EURO đã đạt mức kỷ lục 1€ = 1,3$.
1.2.3. Đầu tư nước ngoài ( ĐTNN).
- Luồng vốn ĐTNN trên thế giới tăng nhanh trong hơn hai thập kỷ qua, đặc biệt trong thập kỷ 90, và đạt kỷ lục hơn 1 nghìn tỷ USD vào năm 2000, tăng hơn sáu lần so với 151 tỷ USD của năm 1990.
- Từ năm 2001, suy thoái, bất ổn về kinh tế, tiền tệ, tài chính đã tác động đến các luồng vốn ĐTNN. Năm 2002, ĐTNN trên thế giới chỉ đạt khoảng 534 tỷ USD vào năm 2002, giảm 27% so với năm 2001 và tới 64% so với năm 2000. Năm 2003, đầu tư trực tiếp nước ngoàămtng lên hơn 600 tỷ đô lam nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với thời kỳ cao điểm năm 2000.
- Trong số các nước đang phát triển, Châu á thu hút nhiều ĐTNN nhất, chiếm tới 14% FDI toàn thế giới vào năm 2001 (năm 2000: 9%) và 70-75% FDI vào các nước đang phát triển (số liệu năm 2000). Năm 2002, các nước đang phát triển Châu á thu hút được 90 tỷ USD, trong đó Trung Quốc là nước thu hút được 50 tỷ đô la, chiếm già nửa tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào các nước đang phát triển.
1.2.4 Viện trợ phát triển.
- ODA là nguồn viện trợ phát triển chính thức (hoàn lại hay không hoàn lại) của chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ cho các nước đang phát triển để phát triển kinh tế, chủ yếu là xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực của nền kinh tế, phục vụ cho phát triển bền vững (bảo vệ môi trường và xoá đói giảm nghèo)... Theo nghị quyết của Liên hợp quốc, các nước phát triển phải dành 0,7% GDP hàng năm của họ cho ODA.
- Tuy nhiên, rất ít nước thực hiện được chỉ tiêu của LHQ. Xu hướng chung trong mấy năm gần đây là ODA vừa giảm cả tỷ lệ so với GDP và khối lượng tuyệt đối. Chỉ trong vòng 5 năm từ 1992 đến 1997, viện trợ của OECD cho các nước đang phát triển giảm từ tỷ lệ 0,33% GNP xuống 0,22%. Năm 2000, ODA toàn thế giới 53,1 tỷ USD, giảm 6% so với năm 1999.
1.3. Dự báo một số đặc điểm và xu thế lớn của kinh tế thế giới.
a. Cuộc cách mạng KHCN lần thứ tư sẽ tiếp tục phát triển theo chiều sâu, tác động sâu rộng hơn nữa đến sự phát triển của nền kinh tế thế giới.
Thế giới sẽ chứng kiến sự phát triển với tốc độ chóng mặt của ba cuộc cách mạng lớn mang tính đột phá, đó là cách mạng về lượng tử, cách mạng về máy tính và cách mạng về sinh học. Nếu ở thế kỷ XIX, thời gian trung bình để đưa một phát minh khoa học vào sử dụng trong công nghiệp phải mất 60-70 năm; vào đầu thế kỷ XX thời gian đó là 30 năm, và vào cuối thế kỷ XX thời gian đó chỉ còn ba năm, thì nhiều đoán cho rằng tới đây thời gian trung bình để đưa một phát minh khoa học vào sử dụng sẽ chỉ còn trên dưới một năm. Những thành quả KHCN mới, đặc biệt là về công nghệ gen, công nghệ sinh học, công nghệ nano, công nghệ thông tin,... sẽ làm cho khoa học-công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất nòng cốt và trực tiếp của xã hội, tạo nên động lực chính của sự phát triển của kinh tế thế giới trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.
b. Gắn liền với cuộc cách mạng KHCN mới, nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ sẽ là một đặc trưng nổi bật của kinh tế thế giới trong những thập kỷ đầu thế kỷ XXI.
Kinh tế thế giới sẽ chuyển dần từ giai đoạn quá độ từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Trong nền kinh tế mới này, trí tuệ và tri thức đóng vai trò là nội dung chủ yếu của sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu thụ. Với sự phát triển như vũ bão của các công nghệ ICT và mạng Internet, các hoạt động của nền kinh tế sẽ được số hoá và vận hành trong những siêu xa lộ thông tin tạo nên “xã hội thông tin toàn cầu”. Thương mại điện tử sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ hơn và đóng góp nhiều hơn vào tăng trưởng kinh tế thế giới.
Theo đà phát triển nhanh chóng của KHCN, các quốc gia đều tiến hành điều chỉnh lại cơ cấu kinh tế nhằm tạo độ thích nghi cao và tăng khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu. Định hướng của việc tái cấu trúc này là nâng cao vai trò chủ đạo, dẫn đầu của các ngành kinh tế dựa trên các công nghệ có hàm lượng chất xám cao để làm động lực kéo toàn bộ nền kinh tế phát triển. Bởi vậy, xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức đang và sẽ tiếp tục là ưu tiên chính sách của nhiều quốc gia trong những thập kỷ tới, trước hết là ở các nước công nghiệp phát triển Bắc Mỹ và Tây Âu, đi đầu là Mỹ. Còn trong cuộc chạy đua số hoá này, các nước ĐPT ở vào thế bất lợi do chưa đáp ứng được những yêu cầu về hạ tầng cơ sở, nguồn lực con người,... của nền kinh tế tri thức. Bởi vậy, tuy cơ cấu kinh tế ở một số nước ĐPT cũng đã chuyển đổi với sự góp mặt đáng kể vào tăng trưởng của ngành công nghệ thông tin, có thể nói sự chuyển đổi này sẽ chưa diễn ra một cách phổ biến và đồng đều ở tất cả các nước đang phát triển. Và trong vòng 20 năm tới, phần lớn các nước ĐPT vẫn chủ yếu tiến hành công nghiệp hoá để trở thành nước công nghiệp.
c. Quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá gắn liền với tự do hoá thương mại, đầu tư và các liên kết kinh tế quốc tế tiếp tục gia tăng mạnh mẽ.
- Tự do hoá thương mại tiếp tục được đẩy mạnh và thương mại quốc tế vẫn là động lực thúc đẩy kinh tế thế giới tăng trưởng: Hai thập niên đầu thế kỷ XXI là khoảng thời gian có tính chất “quyết định” đối với sự phát triển của thương mại thế giới trong nhiều thập niên tới. Trong thập niên đầu tiên sẽ diễn ra Vòng đàm phán Doha của WTO, và những thoả thuận đạt được trong đàm phán về hai lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ nhiều khả năng sẽ đưa lại một thời kỳ tăng trưởng sống động hơn cho thương mại thế giới. Mặt khác, năm 2010, 2015 và 2020 là những thời điểm bước ngoặt, đánh dấu sự hoàn tất việc dỡ bỏ hoàn toàn các rào cản thuế quan và giảm thiểu các hàng rào phi quan thuế của các khối kinh tế-thương mại khu vực lớn như: AFTA, APEC, NAFTA, MERCOSUR, COMESA,... dẫn đến sự hình thành những thị trường tự do rộng lớn ở hầu hết các khu vực. Hàng loạt các thoả thuận thành lập các khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương từ cấp độ khu vực đến liên khu vực, xuất hiện ngày càng nhiều từ thập kỷ 90 cũng sẽ tạo thêm độn...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status