Tác động xã hội của hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO ở Việt Nam - pdf 12

Download Đề tài Tác động xã hội của hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO ở Việt Nam miễn phí



Mục lục
Tác động xã hội của hội nhập kinh tếquốc tếvà gia nhập
WTO ởViệt Nam
MỞ ĐẦU. 3
TÁC ĐỘNG XÃ HỘI CỦA HỘI NHẬP KINH TẾQUỐC TẾVÀ GIA NHẬP WTO ỞVIỆT NAM. 4
1.1. Hội nhập KTQT đã và đang góp phần đổi mới thểchếvà nâng cao hiệu lực của bộmáy nhà nước
và trởthành một động lực cho quá trình phát triển đất nước : . 4
1.2. HNKTQT làm gia tăng mức sống của các nhóm dân cưvà hỗtrợcông cuộc giảm nghèo. 6
1.3. HNKTQT đang làm gia tăng sựphân tầng xã hội, bất bình đẳng xã hội. 9
1.4. Vấn đềviệc làm, quan hệlao động, di cưtrong quá trình HNKTQT: . 12
MỘT SỐGỢI Ý CHÍNH SÁCH: . 18
2.1 - Lựa chọn ưu tiên các mục tiêu phát triển: . 18
2.2 Cần tiếp tục đổi mới thểchếvà nâng cao năng lực và hiệu quảquản lý nhà nước phù hợp với
tốc độtăng trưởng kinh tế, biến đổi xã hội và với điều kiện của một nền kinh tếthịtrường. 19
2.3 - Xây dựng hệthống an sinh xã hội toàn dân phù hợp với quá trình chuyển đổi nền kinh tếsang
nền kinh tếthịtrường theo định hướng XHCN và quá trình HNKTQT. 19
2.4. Xã hội hóa các dịch vụxã hội cơbản, nhưng đảm bảo việc tiếp cận dễdàng đối với các nhóm xã
hội yếu thế. 20


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-30758/
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

ước tăng chi tiêu ngân sách cho các
lĩnh vực xã hội, (chiếm 30% tổng ngân sách), trong đó có các dịch vụ xã hội cơ bản như y
tế, giáo dục, hay XĐGN, hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn. Riêng Chương trỡnh 135 hỗ trợ
9/23
2.374 xã đặc biệt khó khăn, trong giai đoạn 1999-2004, được ngân sách trung ương đầu
tư 7.227,7 tỷ đồng, đã xây dựng được 22 ngàn công trình CSHT, 528 trung tâm cụm xã,
góp phần giảm tỷ lệ cùng kiệt của các xã này từ 60% năm 1999 xuống 23,5% năm 2004 .
Nguồn vốn ODA trong quá trình hội nhập quốc tế cŨng góp phần quan trọng vào
giảm nghèo. Với 24,7 tỷ USD đã ký hiệp định, giải ngân được 15,8 tỷ USD, hoạt động
ODA tập trung vào phát triển hạ tầng KTXH, hoàn thiện thể chế, xóa đói giảm nghèo. Vì
vậy một bộ phận người nghèo, những nhóm xã hội yếu thế đã được hưởng lợi, nâng cao
được ý thức và năng lực quản lý, cải thiện và bảo vệ môi trường. ODA đÓ GÚP PHẦN
QUAN TRỌNG THỲC đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn kết hợp xoá đói giảm
nghèo.. thông qua các dự án, trong đó nguồn vốn ODA đÓ GIỲP NỤNG DÕN cùng kiệt tiếp
cận nguồn tín dụng để tạo ra các ngành nghề phụ, hỗ trợ phát triển công tác khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư, phát triển giao thông nông thôn, thuỷ lợi, cung cấp nước sạch,
phát triển lưới điện sinh hoạt, trạm y tế, trường học...Nguồn vốn ODA đÓ HỖ TRỢ PHỎT
TRIỂN CỎC TỈNH Và THàNH PHỐ, NHẤT Là HỖ TRỢ XOỎ đói giảm nghèo, phát triển
hạ tầng quy mô nhỏ ở các vùng nông thông miền núi; hầu hết các tỉnh và thành phố có
các dự án hệ thống cấp nước sinh hoạt, trường học, bệnh viện hệ thống thuỷ lợi, một số
dự án thoát nước, phát triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ.(9, 2006; 11, 2005; 12,2006)
Đương nhiên, cũng như bất kỳ lĩnh vực nào khác, thành tựu giảm cùng kiệt của Việt
Nam là do một tổ hợp các nhân tố tác động tạo thành. Trong đó, hội nhập kinh tế quốc tế
như là một tác nhân xuyên suốt, trực tiếp và gián tiếp tạo nên kết quả chủ yếu của tăng
trưởng, giảm cùng kiệt và phát triển xã hội nói chung ở Việt Nam trong suốt 2 thập kỷ qua.
1.3. HNKTQT đang làm gia tăng sự phân tầng xã hội, bất bình đẳng xã
hội
Phân tầng xã hội phản ánh cấu trúc xã hội bất bình đẳng trong quá trình vận động
và phát triển của xã hội. Đối với một xã hội có nền kinh tế chuyển đổi và đang trong quá
trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như nước ta, với tốc độ tăng trưởng kinh tế
tương đối cao, liên tục trong thời gian dài, thì nhiều khả năng phân tầng xã hội ngày càng
gia tăng, trở thành một vấn đề xã hội có tính cấp thiết, thu hút sự quan tâm rộng rãi của
toàn xã hội, từ giới lãnh đạo đến những người dân cùng kiệt khổ nhất. Vấn đề này lại càng
quan trọng khi nước ta xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, mà công bằng xã hội là mục tiêu hàng đầu.
Phân tầng xã hội trong quá trình Đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng,
dù rằng xã hội Việt Nam đang phát triển tương đối công bằng, so với các nước khác có
cùng trình độ phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế (với những đóng góp quan trọng của
FDI và ODA) đã chia sẻ lợi ích cho đông đảo các tầng lớp xã hội, cho đa số người dân ở
mọi vùng đất nước, trong đó có cả người nghèo, các nhóm xã hội yếu thế. Nhưng vẫn còn
những khác biệt, sự không công bằng, khi có những nhóm xã hội được hưởng lợi nhiều
hơn và những nhóm hửơng lợi ít hơn, thậm chí bị rủi ro, mất mát. Hệ số Gini tăng tương
đối ít trong một thời gian dài (từ 0,34 năm 1993, tăng lên 0,35 năm 1998 và 0,37 năm
2004) và dường như bất bình đẳng tương đối ở Việt nam không khác nhiều với các nước
có cùng mức thu nhập bỡnh quõn đầu người dựa trên sức mua tương đương.
Tuy nhiên, bất bình đẳng tuyệt đối đang tăng, nếu so sánh khoảng cách chi tiêu
dùng giữa nhóm 20% giàu nhất và 20% cùng kiệt nhất. Nếu năm 1993, chi tiêu dùng của các
hộ giầu nhất gấp 5 lần so với các hộ cùng kiệt nhất, thì năm 2004, khoảng cách này đã tăng
lên 6,3 lần. Tỷ lệ của nhóm giầu nhất trong tổng chi tiêu dùng xã hội tăng từ 41,8% năm
1993, tăng lên 44,7% năm 2004, trong khi đó tỷ lệ này của nhóm cùng kiệt nhất lại giảm
tương ứng từ 8,4% xuống còn 7,1% cùng thời kỳ(3,2007)
10/23
Bất bình đẳng giữa các vùng trong quá trình tăng trưởng kinh tế cũng ngày càng
gia tăng. Tỷ lệ hộ cùng kiệt ở các vùng Tây bắc, Tây nguyên ( hai vùng tập trung đồng bào
dân tộc thiểu số), Bắc trung bộ, đồng bằng sông Cửu long gấp 4,5 lần tỷ lệ hộ cùng kiệt
chung của cả nước.
Nếu so sánh bất bình đẳng về tài sản (nếu đo lường được, trong điều kiện hiện tại)
thì nhiều khả năng khoảng cách giữa nhóm giầu nhất và cùng kiệt nhất có thể gia tăng gấp
nhiều lần so với đo lường bằng các chỉ báo chi tiêu hay thu nhập ở các nghiên cứu đã có.
Trong giai đoạn 1993-2004, gia tăng bất bình đẳng chung chủ yếu là sự gia tăng
bất bình đẳng giữa đô thị và nông thôn, mặc dù tầm quan trọng của nó trong bất bình
đẳng chung ngày càng giảm dần và sự bất bình đẳng nội vùng ngày càng cao và lớn hơn
sự bất bình đẳng giữa đô thị và nông thôn. Phân tích hệ số bất bình đẳng Theil L cho thấy:
nếu trong giai đoạn 1993-1998, 96% gia tăng bất bình đẳng ở Việt Nam là do gia tăng bất
bình đẳng giữa các vùng thành thị và nông thôn và chỉ có 4% là do bất bình đẳng trong nội
vùng nông thôn hay thành thị thì đến giai đoạn 1998-2004, tỷ lệ tương ứng là 39% so với
61% (3, 2007)
Tuy nhiên, phân tầng xã hội cũng tạo ra những cơ hội và kích thích những người
có năng lực, biết nắm bắt các cơ hội thị trường, vươn lên thành đạt hơn trên các thang bậc
xã hội. Nhiều doanh nhân trẻ, người lao động, trí thức... đã trở nên giầu có, có vị thế xã
hội cao hơn trong quá trình HNKTQT và phát triển nền kinh tế thị trường. Tại các đô thị,
đã hình thành một nhóm xã hội giầu có, gắn với hiện tượng cư trú tách biệt và tập trung
tích tụ tài sản. Từ thực trạng sở hữu cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, VnExpres
ngày 23/1/2007, căn cứ vào các bảng cáo bạch của gần 150 công ty, đã cho biết: ”Tổng
giỏ trị tài sản của 650 cỏ nhõn sở hữu cổ phiếu, bao gồm các cổ đông sáng lập, những
người nằm trong hội đồng quản trị, ban kiểm soát, ban tổng giám đốc, và bà con ruột thịt,
tính theo giá cổ phiếu cuối ngày 29/12/2006, đạt trên 37,2 nghỡn tỷ đồng, tương đương
hơn 4% GDP của Việt Nam”. Hiện tượng cư trú tách biệt, chủ yếu dựa trên yếu tố kinh tế,
đã xuất hiện ở những thành phố lớn và các đô thị xung quanh, chỉ trong khoảng 10 năm
hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng. Đầu tư nước ngoài đã phát triển mô hình mẫu này
như Phú Mỹ Hưng, Villa Riviera, Ciputra kích thích làn sóng tiêu dùng nhà ở cao cấp của
các nhóm xã hội giầu có. Tuy nhiên, sự tập trung đầu tư của các doanh nghiệp nước
ngoài và trong nước vào các khu vực bất động sản dành cho “nhà giàu”, có thể lại kéo
theo sự sụt giảm tương đối của việc phát triển nhà ở dành cho người thu nhập thấp ở
thành thị do thiếu ngu
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status