Tiểu luận Chi ngân sách nhà nước với thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua - pdf 12

Download Tiểu luận Chi ngân sách nhà nước với thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua miễn phí



MỤC LỤC
 
Lời mở đầu 1
I. Tăng trưởng kinh tế - một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng 2
1. Khái quát chung về tăng trưởng kinh tế 2
2. Các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế 3
a) Mục tiêu của tăng trưởng kinh tế 3
b) Năng suất - yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định tăng trưởng 4
c) Các nguồn lực của tăng trưởng kinh tế 4
3. Vấn đề về chi ngân sách nhà nước 8
II. Vấn đề NSNN đối với tăng trưởng kinh tế thế giới 10
III. Chi ngân sách nhà nước với thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua 11
1. Tình hình kinh tế - ngân sách Việt Nam thời gian qua 11
2. Tình hình sử dụng công cụ ngân sách nhà nước của Việt Nam nhằm thúc đẩy kinh tế 12
IV. Đổi mới hoàn thiện vấn đề chi ngân sách chính phủ 16
1. Quản lý ngân sách chính phủ 16
2. Tài trợ cho thâm hụt ngân sách chính phủ 18
Lời kết 20
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-30691/
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

g trưởng kinh tế
Sau khi đã nghiên cứu mục tiêu của tăng trưởng và yếu tố năng suất, người ta lại đặt ra một câu hỏi: Vì sao một số nền kinh tế lại có khả năng sản xuất ra nhiều hàng hoá - dịch vụ hơn các nền kinh tế khác?
Để trả lời được câu hỏi đó ta cần xem xét về các nguồn lực của tăng trưởng. Nguồn lực hay chính là các nhân tố quyết định tăng trưởng, gồm: nguồn nhân lực, tích lũy tư bản, tài nguyên thiên nhiên và tri thức công nghệ. Các nhân tố này cũng tồn tại và quyết định năng suất của các nền kinh tế hiện thực nhưng phức tạp hơn.
Vốn nhân lực là yếu tố đầu tiên quyết định đến tăng trưởng kinh tế của một nước.
Nhiều nhà kinh tế cho rằng chất lượng đầu vào lao động - kỹ năng, kiến thức và kỷ luật của lực lượng lao động - là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các yếu tố khác của sản xuất như tư bản hiện vật, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua hay vay được trong nền kinh tế thế giới. Một nước có thể nhập khẩu các thiết bị thông tin viễn thông, máy tính, máy phát điện, các loại máy móc hiện đại nhất. Nhưng những hãng tư bản này chỉ có thể được sử dụng một cách hiệu quả nhất nếu như người công nhân có kỹ năng và được đào tạo, có trình độ văn hoá, kỷ luật lao động cao làm cho năng suất lao động tăng, và người quản lý có tri thức và khả năng quản lý những quy trình công nghệ hiện đại một cách có hiệu quả.
Công nhân làm việc với năng suất cao hơn nếu họ có nhiều công cụ lao động hơn khối lượng trang thiết bị và cơ sở vật chất dùng trong quá trình sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ được gọi là tư bản hiện vật hay viết gọn là tư bản. Ví như khi người thợ mộc làm việc, anh ta có cưa, bào, đục, máy tiện… Việc có nhiều công cụ hơn cho phép người thợ làm việc nhanh và chính xác hơn. Nghĩa là trong một tuần người thợ mộc với công cụ thô sơ sẽ làm ra ít sản phẩm hơn so với người có công cụ tinh vi, chuyên cho nghề mộc. Tư bản hiện vật biểu thị yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất mà trước đó đã từng là đầu ra của nó. Tư bản hiện vật là nhân tố sản xuất được dùng để sản xuất ra tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ, trong đó có bản thân tư bản.
Bản thân tư bản hiện vật của một nước tăng trưởng theo thời gian nhưng tăng nhanh hay chậm phụ thuộc vào quá trình tích luỹ tư bản. Nhưng như chúng ta biết tích luỹ tư bản cần có sự hy sinh tiêu dùng hiện tại trong nhiều năm. Nhưng nó tăng trưởng nhanh có xu hướng đầu tư mạnh vào hàng hoá tư bản mới, ở những nước tăng trưởng nhanh nhất, 10 ® 20 % thu nhập dành cho tích luỹ tư bản - yếu tố tác động đến tăng trưởng. Khi bàn đến tư bản chúng ta không chỉ đề cập đến nhà xưởng, máy móc. Nhiều đầu tư do chính phủ tiến hành và đặt nền móng cho sự phát triển của khu vực tư nhân. Những đầu tư này được gọi là tư bản cố định xã hội và bao gồm dự án lớn như mở đường cho các hoạt động thương mại. Đường sá và các dự án về nước và thuỷ lợi, các biện pháp yếu tố cộng đồng là những ví dụ quan trọng. Tất cả những dự án này gồm những khoản đầu tư lớn thường không thể chia nhỏ được hay đầu tư trọn gói và nhiều khi có lợi tức tăng dần theo quy mô. Và các khoản đầu tư này ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế - chính phủ phải tham gia vào để đảm bảo những đầu tư cơ sở hạ tầng hay tư bản xã hội được thực hiện.
Tài nguyên thiên nhiên một trong những yếu tố sản xuất quan trọng của nền kinh tế. Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất do thiên nhiên mang lại như đất đai, sông ngòi và khoáng sản. Có 2 loại tài nguyên thiên nhiên: loại tái tạo được và loại không tái tạo được. Dầu mỏ là tài nguyên thiên nhiên thuộc loại không tái tạo được; rừng cây là ví dụ về tài nguyên tái tạo được.
Sự khác biệt về nguồn tài nguyên thiên nhiên gây ra một số khác biệt về mức sống trên thế giới. Sự thành công có ý nghĩa lịch sử của Mỹ bắt nguồn từ cung đất đai mênh mông, thích hợp cho ngành nông nghiệp. Ngày nay một số nước ở vùng Trung Đông như Cô-oét và Ả rập Xêút rất giàu chỉ vì họ sống trên những giếng dầu lớn nhất thế giới.
Mặc dù nguồn tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa quan trọng, nhưng đó không nhất thiết là nguyên nhân làm cho nền kinh tế có năng suất cao trong việc sản xuất hàng hoá và dịch vụ. Ví dụ, Nhật là một trong những quốc gia giàu nhất thế giới mặc dù không có tài nguyên thiên nhiên. Thương mại quốc tế là nguyên nhân thành công của nước Nhật. Nhật nhập khẩu rất nhiều tài nguyên thiên nhiên cần thiết, chẳng hạn dầu mỏ, rồi xuất khẩu hàng công nghiệp sang các nước có nhiều tài nguyên.
Cùng với ba nhân tố sản xuất đã thảo luận ở trên, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc vào nhân tố hết sức quan trọng là tri thức công nghệ. Trong lịch sử, tăng trưởng của các nước trên thế giới có hình mẫu khác nhau không phải là quá trình sáng chế và thay đổi công nghệ không ngừng đem lại một bước tiến xa về khả năng sản xuất của các nước châu Âu, Mỹ, Nhật và các nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Singapor…
Nhân tố cuối cùng quyết định năng suất là tiến bộ công nghệ. Cách đây một thế kỷ, đa số người Mỹ là nông dân, bởi vì kỹ thuật trồng trọt hồi ấy đòi hỏi nhiều lao động để làm ra lượng lương thực cần thiết cho mọi người. Ngày nay nhờ những tiến bộ trong kỹ thuật trồng trọt, chỉ một phần nhỏ dân số làm việc trong nông nghiệp cũng đủ nuôi sống toàn xã hội. Sự thay đổi về công nghệ như thế cho phép chuyển lao động sang các ngành sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ khác.
Thay đổi công nghệ là những thay đổi trong quá trình sản xuất hay đưa ra những sản phẩm mới sao cho có thể tạo ra được sản lượng nhiều hơn và cải tiến hơn cùng với một lượng đầu vào. Những phát minh đã làm năng suất tăng nhanh là động cơ hơi nước, máy phát điện, bóng đèn, động cơ đốt trong, và máy bay phản lực hạng nặng chở khách. Những thay đổi công nghệ cơ bản là những phát minh ra sản phẩm mới như điện thoại, máy thu thanh, máy bay, máy ảnh, vô tuyến truyền hình và máy tính. Những phát minh này là những phát minh nổ bật nhất trong kỷ nguyên hiện đại đang diễn ra trong ngành điện và tin học mà một máy tính xách tay nhỏ bé ngày nay có công suất vượt xa máy tính nhanh nhất của những năm 1960. Những phát minh này là những ví dụ đặc sắc nhất về thay đổi công nghệ. Tuy nhiên thay đổi công nghệ trên thực tế là một quá trình liên tục bao gồm những cải tiến lớn, nhỏ. Những cải tiến nhỏ là bộ phận của sự tiến bộ đều đặn của nền kinh tế.
Tiến bộ công nghệ có tầm quan trọng lớn trong việc nâng cao mức sống, các nhà kinh tế từ lâu đã suy nghĩ làm thế nào để khuyến khích tiến bộ công nghệ. Rõ ràng rằng thay đổi công nghệ khhông phải là quá trình cơ học đơn giản của việc đi tìm những sản phẩm và quá trình sản xuất tốt hơn. Thay vì thế, sáng kiến nhanh đòi hỏi phải nuôi dưỡng một tinh thần kinh doanh.
Trên đây là 4 nguồn của tăng trưởng kinh tế, tuy...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status