Công nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa - pdf 13

Link tải luận văn miễn phí cho ae



Quá trình phân công lao động ở nước ta chưa thực sự phát huy tác dụng, việc chuyên môn hóa bước đầu được thực hiện nhưng chưa cao, các mối liên hệ giữa các ngành đã được hình thành nhưng chưa chặt chẽ. Việc đưa khoa học kỹ thuật vào nước ta còn ồ ạt, thiếu chọn lọc. Quá trình chuyển giao công nghệ không chọn được công nghệ phù hợp nhập vào trong nước những công nghệ quá lạc hậu hay quá hiện đại mà chúng ta không sử dụng được do yếu về trình độ. Có những công nghệ nhập về lại phải mời chuyên gia về gây tốn kém và không sử dụng hết công suất của máy.
Đối với những nước chậm phát triển như nước ta, tài nguyên thiên nhiên là nhân tố quan trọng trong việc phát triển công nghiệp. Với tiềm năng nguyên liệu hiện có chúng ta có điều kiện hình thành các ngành công nghiệp đặc biệt là các ngành công nghiệp khai thác và công nghiệp chế biến và thu hút được lực lượng lớn lao động. Tuy nhiên việc khai thác tài nguyên của nước ta chưa hợp lý, làm cạn kiệt những nguồn tài nguyên thiên nhiên quý và không chú trọng cải tạo khôi phục những nguồn tài nguyên hữu hạn.

Chú trọng công nghiệp hướng về xuất khẩu đồng thời quan tâm đến phát triển công nghiệp vừa và nhỏ. Quá trình này đòi hỏi phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp có kỹ thuật cao, có giá trị gia tăng lớn. Các ngành công nghiệp nhỏ chiếm tỷ trọng nhỏ bé tuy vậy thị trường phát triển lại đòi hỏi quan tâm đến doanh nghiệp nhỏ vì nhiều lý do và để khuyến khích phát triển công nghiệp nhỏ các nước đã:
Từng bước xóa bỏ quan niệm chưa đúng về vai trò của công nghiệp nhỏ.
Tăng cường vai trò của chính phủ để hỗ trợ việc cung cấp thông tin thị trường cho doanh nghiệp nhỏ.
Hỗ trợ đào tạo cho công nghiệp nhỏ
Tổ chức Marketing quốc tế
- áp dụng các chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhỏ
Tăng cường sự điều tiết của Nhà nước vào CNH. Sự can thiệp của Nhà nước vào CNH ở ASEAN là vừa phải theo chuẩn mực quốc tế. Mục tiêu của các nước này là:
Điều tiết công nghiệp nhằm tăng tỷ lệ công nghiệp trong GDP, thay đổi cơ cấu kinh tế và có lợi cho công nghiệp.
Phát triển công nghiệp cân đối nhằm xây dựng cơ cấu thị trường có sự cạnh tranh, cân đối giữa các địa phương.
Giải quyết cơ bản về xã hội, cải tiến cuộc sống của người nghèo.
Giải quyết cân bằng dân tộc
Gia tăng thu nhập ngoại hối...
Để thực hiện các nước này đã sử dụng biện pháp: Về tổ chức, thành lập ban đầu từ BOI kết hợp quản lý kinh tế. Về chính sách kinh tế: có định hướng chiến lược cho phát triển công nghiệp, can thiệp vào ngoại thương, bảo hộ kinh tế và can thiệp vào thị trường lao động thông qua định mức lương tối thiểu, can thiệp vào thị trường vốn thông qua ngân hàng Nhà nước quy định giá cả, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
II/ Công nghiệp và quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam trong thời gian qua:
1. Thực trạng quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam:
Căn cứ vào sự đổi mới thực sự, toàn diện về lý luận và thực tiễn của quá trình CNH ở nước ta thời gian qua có thể chia làm hai giai đoạn cơ bản: từ năm 1960-1986 và từ 1986 đến nay.
Giai đoạn 1960-1986:
Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là thực hiện một chiến lược nhất quán được xác định từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960). Đảng đã khẳng định “nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là CNH XHCN mà mấu chốt là phát triển nền công nghiệp nặng”1 Đảng Lao động Việt Nam . Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần III, 1960.
2 Đảng Lao động Việt Nam . Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần III, 1960.
Để thực hiện chiến lược này, chúng ta đã tập trung mọi nguồn lực trong nước và nước ngoài, chúng ta đã tập trung mọi nguồn lực trong nước và nước ngoài, tranh thủ sự viện trợ và giúp đỡ của các nước bạn XHCN... chú trọng một khoảng thời gian chúng ta đã hình thành được một nền kinh tế đa ngành, có các ngành quan trọng như cơ khí, luyện kim, điện năng, khai thác than...
Trong thời kỳ 1961-1965 tốc độ tăng bình quân giá trị tổng sản lượng công nghiệp là 13,4%, của nông nghiệp là 4,1%. Do vậy, tỷ trọng của công nghiệp trong TNQD tăng 16% Năm 1957 lên 18,2%, năm 1960 và 22,2% năm 1965. Còn tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 44,3% năm 1957 xuống 42,3% (1960) và 41,7% (1965). Đến năm 1964 miền Bắc nước ta đã căn bản giải quyết được vấn đề lương thực và đáp ứng được 90% nhu cầu hàng tiêu dùng và đồng thời bắt đầu tạo nguồn tích lũy trong nước. Trong những năm có chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ với chi phí phát triển kinh tế vẫn tăng lên 5,7 lần so với năm 1955-1957, gấp 2,4 lần so với 1960 và 1,8 lần so với 1964. Nhà nước đã giành đến 80% tổng số vốn đầu tư cho công nghiệp nặng trong năm 1960-1965. Vốn đầu tư cho công nghiệp nhóm A tăng 11,2 lần, nhóm B: 6,9 lần trong thời kỳ 1960-1965. Giá trị xuất khẩu thấp nền kinh tế luôn ở tình trạng nhập siêu.
Những cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng đã được xây dựng và phát triển như điện, than, cơ khí, luyện kim, hóa chất, vật liệu xây dựng. Tốc độ phát triển của các ngành công nghiệp thuộc nhóm A nhanh hơn tốc độ phát triển chung của toàn ngành công nghiệp. Năm 1975 so với 1955 giá trị sản lượng ngành điện lực gấp 22,3 lần, của ngành cơ khí gấp 59,8 lần và ngành hóa chất gấp 79,1 lần, trong lúc toàn ngành công nghiệp chỉ tăng 16,2 lần. Một số vùng lãnh thổ đã hình thành trung tâm công nghiệp như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Bắc, Việt Trì, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Vinh... Dần dần hình thành nên những vùng công nghiệp chuyên môn hóa, nhờ chủ trương kết hợp phát triển công nghiệp trung ương với công nghiệp địa phương, nên hầu hết các tỉnh, thành phố, thị trấn đều phát triển công nghiệp địa phương. Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân kỹ thuật tăng khá nhanh, là vốn quý quan trọng cho quá trình CNH ở thời kỳ này và thời kỳ sau. Năm 1975 so với năm 1955 số cán bộ có trình độ đại học và trên đại học tăng nhanh hơn 129 lần, cán bộ có trình độ trung học chuyên nghiệp tăng gấp hơn 84 lần, công nhân kỹ thuật năm 1975 tăng gấp 6 lần năm 1960.
Chúng ta đã cố gắng lớn trong việc tăng cường trang bị kỹ thuật và ứng dụng khoa học trong các ngành kinh tế, hầu hết đều được trang bị máy móc thiết bị của nước ngoài. Đi liền quá trình phát triển công nghiệp hàng loạt thành phố thị trấn đã xuất hiện quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh. Thời gian này Đảng có chủ trương ưu tiên phát triển hệ thống y tế, văn hóa, giáo dục.
Sau năm 1975 thống nhất đất nước do vậy đòi hỏi phải có chiến lược CNH thích hợp hơn. Nhưng thực tế, đường lối CNH do Đảng đề ra vẫn giữ nguyên.
Do chủ trương nôn nóng chủ quan duy ý chí và với sai lầm trong công tác chỉ đạo, trong cơ chế và chính sách nền thời kỳ đầu 1974-1980 nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng, cơ cấu kinh tế ngày càng trở nên bất hợp lý và mất cân đối nghiêm trọng. Nông nghiệp kém phát triển không đáp ứng được nhu cầu trong nước, công nghiệp nặng không phát huy được tác dụng. Thời kỳ 1976-1980 tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng 1,4%; thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,6%. Trong khi đó dân số tăng 2,24%/năm, sản xuất công nghiệp bình quân chỉ tăng 0,6%, trong đó công nghiệp quốc doanh giảm 2,6%; sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 1,9%. Quá trình CNH diễn ra có nhiều khó khăn và chậm chạp vì thiếu những tiền đề kinh tế cơ bản. Hiệu quả kinh tế rất thấp so với nguồn vốn và công sức bỏ ra. Nguồn lực bị lãng phí nhiều, cơ cấu kinh tế mất cân đối chưa có tích lũy nội bộ.
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng CNH ở giai đoạn này là:
Nhận thức về CNH còn đơn giản, phiến diện và đồng nhất cách đi với thực chất của CNH, coi phát triển công nghiệp nặng chính là CNH, dập khuôn máy móc lý luận và mô hình CN...


dixc15d0G980e2M
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status