Chuyên đề Xã hội hoá dịch vụ đăng kiểm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ đang lưu hành - pdf 13

Download Chuyên đề Xã hội hoá dịch vụ đăng kiểm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ đang lưu hành miễn phí



MỤC LỤC
 
 
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT . .1
LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG1: LÝ LUẬN CHUNG . .4
1.1. PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ. 4
1.1.1. Định nghĩa. 4
1.1.2. Phân loại PTGTCGĐB. 4
1.1.3. Tiêu chuẩn về an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của PTGTCGĐB. 5
1.2. ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ ĐANG LƯU HÀNH. 14
1.2.1. Đăng kiểm, đăng kiểm PTGTCGĐB đang lưu hành. 14
1.2.2. Mục tiêu của Đăng kiểm PTGTCGĐB. 15
1.2.3. Một số quy định về đăng kiểm. 16
1.3. XÃ HỘI HOÁ DỊCH VỤ ĐĂNG KIỂM PTGTCGĐB ĐANG LƯU HÀNH. 23
1.3.1. Khái niệm xã hội hoá. 23
1.3.2. Xã hội hoá dịch vụ đăng kiểm PTGTCGĐB đang lưu hành. 24
1.3.3. Mục tiêu của xã hội hoá dịch vụ đăng kiểm PTGTCGĐB đang lưu hành. 24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XÃ HỘI HOÁ DỊCH VỤ ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ. 25
2.1. CỤC ĐĂNG KIỂM VIỆT NAM – HƠN 4O NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN. 25
2.1.1. Giới thiệu chung về Cục Đăng kiểm Việt Nam. 25
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển. 26
2.1.3. Cơ cấu tổ chức. 33
2.1.4. Nhiệm vụ quyền hạn. 39
2.1.5. Hoạt động đăng kiểm năm 2007. 41
2.2. THỰC TRẠNG XÃ HỘI HOÁ DỊCH VỤ ĐĂNG KIỂM PTGTCGĐB ĐANG LƯU HÀNH. 45
2.2.1. Thực trạng quá trình xã hội hoá dịch vụ đăng kiểm PTGTCGĐB đang lưu hành. 45
2.2.2. Thành tựu. 51
2.2.3. Hạn chế. 53
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP XÃ HỘI HOÁ DỊCH VỤ ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ ĐANG LƯU HÀNH. 56
3.1. Bổ sung, hòan chỉnh hệ thống văn bản pháp lý. 56
3.2. Tăng cường hoạt động quản lý của Cục đăng kiểm đối với các trung tâm đăng kiểm. 57
3.3. Tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ các trung tâm đăng kiểm tư nhân .58
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-36094/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Từ Liêm, Hà Nội.
Ðăng kiểm Việt Nam có 25 chi cục, chi nhánh đăng kiểm tàu thuỷ, công trình biển và sản phẩm công nghiệp; có 18 trung tâm đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ; quản lý và chỉ đạo nghiệp vụ cho 77 trung tâm đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ của các sở giao thông vận tải.
Ðăng kiểm Việt Nam có khoảng 1018 cán bộ, công nhân viên, trong đó có hơn 869 cán bộ kỹ thuật có trình độ cao đẳng và đại học, khoảng 45 cán bộ có trình độ trên đại học.
Mục tiêu
Mục tiêu Chất lượng của Ðăng kiểm Việt Nam là phục vụ lợi ích công cộng và nhu cầu của khách hàng, góp phần bảo đảm an toàn sinh mạng con người, tài sản và môi trường, thông qua công tác xây dựng tiêu chuẩn và giám sát kỹ thuật khi thiết kế, đóng mới, cũng như trong suốt quá trình khai thác các phương tiện sắt, thủy, bộ và công trình biển.
Chính sách chất lượng
Chính sách chất lượng của Ðăng kiểm Việt Nam (VR) là cung cấp các dịch vụ có chất lượng để thực hiện những mục tiêu đề ra.
Các hoạt động giám sát kỹ thuật, chứng nhận chất lượng và an toàn của VR luôn bảo đảm được tính trung thực, tin cậy, nhanh chóng, rõ ràng và không ngừng hoàn thiện. Chính sách này được hiểu, thi hành và duy trì ở mọi cấp của Ðăng kiểm Việt Nam.
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển.
Lịch sử phát triển của Cục đăng kiểm Việt Nam chia làm 6 giai đoạn chính:
Giai đoạn tiền hình thành Đăng kiểm.
Giai đoạn thành lập Ty Đăng kiểm
Giai đoạn xây dựng Ty Đăng kiểm và phục vụ sự nghiệp chống Mỹ cứu nước (1964- 1974).
Giai đoạn thống nhất hoạt động Đăng kiểm trong cả nước ( 1975- 1979).
Giai đoạn củng cố, xây dựng và phát triển Đăng kiểm phương tiện thuỷ (1979- 1995).
Giai đoạn mở rộng lĩnh vực hoạt động Đăng kiểm và hội nhập quốc tế (1995- nay)
Giai đoạn tiền hình thành Đăng kiểm.
So với các tổ chức Đăng kiểm lớn trên thế giới – xuất hiện từ những năm của thế kỷ 18 thì Đăng kiểm Việt Nam hình thành khá muộn.
Trong những năm đầu thế kỷ 20, thực dân Pháp xúc tiến mạnh mẽ việc khai thác nguồn tài nguyên của nước ta tạo tiền đề cho ngành hàng hải Việt Nam phát triển. Hoạt động giám sát an toàn kỹ thuật và đăng ký tàu thuyền là yêu cầu tất yếu và danh từ "Đăng kiểm" đã xuất hiện ở Việt Nam thời kỳ đó.
Hình thức hoạt động đầu tiên của tổ chức Đăng kiểm ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 20 mang tính chất hành chính. Ở miền Bắc có "Hội đồng kiểm soát máy tàu " thuộc Phủ thư hiến Bắc Kỳ. Ở thuộc địa Nam Kỳ có thay mặt của Đăng kiểm Pháp "Bureau Veritas", đặt trụ sở tại Vũng Tàu, chỉ có 2 người để kiểm tra tàu chạy tuyến quốc tế. Tàu trong nước do các Sở , Nha Giao thông công chính đăng kiểm.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ngành Giao thông vận tải thuỷ bắt đầu được hình thành. Hệ thống kiểm tra kỹ thuật mang tính chất lẻ tẻ, chưa có sự chỉ đạo thống nhất.
Khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, ở Hà nội, Sở Giao thông Công chính thành phố thành lập "Ban Kiểm soát hàng giang" theo dõi đăng ký phương tiện vận tải thuỷ thay cho "Ban Giang ngạn" của Sở "Hàng Giang thương thuyền" do Pháp lập lên trước đây.
Cuối 4/1955, ngành Giao thông thuỷ được thành lập, công tác kiểm tra phương tiện do "Phòng hàng vận" phụ trách.
Tháng 5/1955, sau khi tiếp quản Hải Phòng, các phương tiện vận tải thuỷ của Hải Phòng, Kiến An, Hồng Quảng, Hải Ninh do Sở Giao thông Vận tải Hải Phòng đảm nhận việc kiểm tra, đăng ký. Các phương tiện của Hà nội, Nam Định, Ninh Bình, Hải Dương và các tỉnh khác do ngành Giao thông trực tiếp đăng ký.
Ngày 11/8/1956 Chính phủ ký quyết định thành lập Cục Vận tải thuỷ. Cục vận tải thuỷ bắt đầu xây dựng cơ sở pháp lý hình thành nên những nguyên tắc, những quy định áp dụng cho toàn ngành Vận tải thuỷ, bao gồm cả công tác Đăng kiểm:
Nghị định 47-NĐ ngày 12/8/1958 của Bộ Giao thông và Bưu điện về đăng ký quản lý các phương tiện đi sông và thuyền buồm đi biển.
Nghị định 307-NĐ ngày 18/8/1959 của Thủ tướng Chính Phủ quy định những nguyên tắc cơ bản về GTVT đường sông.
Thông tư số 3-TT ngày 3/2/1960 của Bộ Giao thông và Bưu điện về việc đăng ký các thuyền đánh cá.
Năm 1960, Cục Vận tải Đường thuỷ thành lập "Phòng Đăng ký Hải sự" để kiểm tra, đăng ký các loại tàu sông loại lớn và các loại tàu đi biển. Năm 1962, phòng Đăng ký Hải sự được đổi tên thành " Phòng Đăng ký giám sát an toàn" bổ sung thêm nhiệm vụ kiểm tra giám sát an toàn, tổ chức sát hạch thuyền viên đường sông, đường biển. Đến ngày 15/03/1963, Phòng đăng kiểm được thành lập trực thuộc vào Cục Đường Thuỷ, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế, con dấu riêng. Đây là bước chuẩn bị quan trọng cho việc hình thành Ty Đăng kiểm VN sau này.
Giai đoạn thành lập Ty Đăng kiểm.
Đầu năm 1964, kinh tế miền Bắc đang trên đà phát triển mạnh mẽ, sản lượng vận tải đường thuỷ tăng lên nhanh chóng. Ta tiếp nhận thêm rất nhiều tàu mới và tự đóng được một số tàu và xà lan đi biển, có rất nhiều hợp tác xã vận tải biển đã được cơ giới hoá. Do đó, công tác quản lý an toàn của Phòng Đăng kiểm không còn đáp ứng kịp, đòi hỏi có một tổ chức Đăng kiểm lớn hơn.
Ngày 25 tháng 4 năm 1964, Bộ Giao thông Vận tải đã ký Quyết định số 345-TL thành lập Ty Đăng kiểm Việt Nam đặt trụ sở tại Hải Phòng. Lịch sử của Ngành Đăng kiểm Việt Nam đã bước sang một trang mới.
Khi mới thành lập Ty Đăng kiểm có 23 người, trong đó có 17 cán bộ kỹ thuật, 6 cán bộ chính trị, hành chính sự nghiệp. Về tổ chức Ty Đăng kiểm có 4 phòng chuyên môn nghiệp vụ:
Phòng tiêu chuẩn: biên soạn các tiêu chuẩn, quy phạm, thiết lập các biểu mẫu Đăng kiểm, xét duyệt thiết kế, giám sát đóng tàu mới.
Phòng kiểm nghiệm có chức năng kiểm tra các tàu, sữa chữa và tàu đang khai thác.
Phòng nồi hơi đặt tại 80 Trần Hưng Đạo, Hà nội có nhiệm vụ kiểm tra nồi hơi đầu máy toa xe lửa ở Nhà máy cơ khí Gia Lâm, phương tiện thuỷ khu vực Hà nội.
Phòng Nhân chính phụ trách công tác cán bộ, hành chính kế toán tài vụ.
Giai đoạn xây dựng Ty Đăng kiểm và phục vụ sự nghiệp chống Mỹ cứu nước (1964- 1974).
Trong những năm 1967 – 1968, Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại và tăng cường ở miền Bắc, đường biển bị phong toả, các cửa biển, các đầu mối giao thông bị uy hiếp nghiêm trọng. Hoạt động của Đăng kiểm trong thời điểm trọng đại và khó khăn ấy là vừa phải đảm bảo đến mức cao nhất tính an toàn kỹ thuật cho các phương tiện, duy trì và nâng cao chất lượng, tuân thủ các luật lệ và quy định hiện hành của Nhà nước, vừa phải có cách giải quyết linh hoạt, mạnh dạn, dám chịu trách nhiệm nhằm giải phóng nhanh phương tiện để tham gia sản xuất, phục vụ tiền tuyến. Năm 1966, Phòng kiểm tra đóng mới được thành lập và đổi tên thành Phòng Kỹ thuật vào năm 1970, và cũng vào thời điểm này mạng lưới Đăng kiểm đã hình thành 4 chi nhánh: Hải phòng, Hà nội, Nam định, Nghệ An.
Giai đoạn 1964 – 1974 hoạt động Đăng kiểm vươn rộng ra các tỉnh miền Tây bắc bộ và miền Trung. Ty Đăng kiểm Việt Nam hoàn thành những nhiệm vụ của ngành...

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status