Tiểu luận Biến đổi khí hậu với đồng bằng sông Cửu Long - pdf 13

Download Tiểu luận Biến đổi khí hậu với đồng bằng sông Cửu Long miễn phí



Biến đổi khí hậu sẽgây ra hạn hán. Cùng với nước biển dâng, dòng sông cạn
kiệt là tác nhân đưa nước mặn từbiển xâm nhập sâu vào đất liền.
Ở ĐBSCL mấy năm gần đây tuy hạn hán xảy ra nghiêm trọng nhưng diện
tích gieo trồng lúa Đông Xuân đã lên đến 1,5 triệu ha, diện tích gieo trồng lúa hè thu
đã lên tới 1,8 ÷ 1,9 triệu ha. Đó là nhờcác hồchứa thủy điện lớn trên lưu vực sông
MêKong đã xây dựng và phát huy tác dụng.
Trước năm 1990 trên lưu vực sông MêKong mới chỉxây dựng thủy điện Nậm
Ngum (Lào) có dung tích hiệu dụng là 4700 triệu m3. Từnăm 1991 đến năm 2003
các nước Trung Quốc, Việt Nam, Lào đã xây dựng thêm 4 nhà máy thủy điện lớn
với dung tích hiệu dụng là 1926 triệu m3, nhờ đó mà lưu lượng sông Mêkong ở
Paskse trung bình 5 năm liên tục các tháng II, III, IV của các năm từ2001 – 2005
lớn hơn 5 năm từ1991 – 1995 khoảng 310 ÷ 370 m3/s. Lưu lượng sông Mêkong ở
Kratie trung bình 5 năm liên tục các tháng II, III, IV của 5 năm từ1996 đến 2000
cao hơn của 5 năm từ1991 – 1995 là 290 ÷ 500 m3/s.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-35830/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

- 1 -
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VỚI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Biến đổi khí hậu là hiện tượng trái đất nóng dần lên do hiệu ứng nhà kính làm
cho nhiệt độ ở các đại dương tăng dần lên, làm tan băng ở các vùng cực đới, dẫn tới
khí hậu của trái đất biến đổi, hạn hán bão lũ xảy ra ngày một tăng, nước biển ngày
một dâng cao.
Theo dự báo của Ban Liên Chính Phủ về biến đổi khí hậu đến cuối thế kỷ
XXI, nhiệt độ trung bình toàn cầu sẽ tăng 2 – 40C dẫn đến mực nước biển trung bình
toàn cầu sẽ tăng lên 0,18 ÷ 0,59m so với cuối thế kỷ XX. Nếu lượng khí thải nhà
kính giữ ở mức năm 2000 thì cuối thế kỷ XXI nhiệt độ trung bình toàn cầu vẫn tăng
20C và mực nước biển trung bình toàn cầu vẫn tăng 0,1 ÷ 0,25m so với thế kỷ XX.
Trong cả hai trường hợp nếu băng tan nhiều nước biển sẽ dâng cao hơn.
Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu khí tượng thủy văn thì
trong vòng 50 năm (1950 - 2000) nhiệt độ trung bình tăng 0,70C
Trước tình hình trên ngày 2/12/2008 thủ tướng đã ra quyết định nghiên cứu
biến đổi khí hậu và:
Vào năm 2009 hoàn thành các kịch bản biến đổi khí hậu ở Việt Nam.
Cuối năm 2010 hoàn thành việc cập nhật kịch bản biến đổi khí hậu cho từng giai
đoạn từ 2010 – 2100.
Thực hiện quyết định của chính phủ tháng 10/2009 Bộ Tài Nguyên và Môi Trường
đã công bố kịch bản biến đổi khí hậu vào cuối thế kỷ XXI mực nước biển dâng cao
hơn cuối thế kỷ XX là 1,0m.
Đối với ĐBSCL, BĐKH làm cho mực nước biển dâng, hạn hán, lũ lụt xảy ra với tần
suất ngày càng lớn hơn. Những yếu tố đó sẽ làm gia tăng ngập lụt, xâm nhập mặn,
lan tràn chua phèn… và dẫn tới những hệ lụy khác. Trong báo cáo này xin tập trung
vào hai vấn đề chính có tính chất nguyên nhân của mọi nguyên nhân là MỰC
NƯỚC BIỂN DÂNG và HẠN HÁN.
I. MỰC NƯỚC BIỂN DÂNG.
1. Thủy triều ở biển thay đổi theo thời gian là do tác động của mặt Trăng, mặt Trời
và các yếu tố khí hậu khác trong đó tác động của mặt Trăng và mặt Trời là yếu tố
chính. Vì vậy thủy triều ở biển lên xuống theo thời gian có tính chu kỳ ngày đêm,
nửa tháng, một tháng, một năm và nhiều năm.
2. Mực nước đỉnh triều, chân triều chịu sự tác động chính của mặt Trăng, mặt Trời
và các yếu tố khí hậu bình thường ngoài ra còn chịu tác động của các yếu tố khí hậu
bất bình thường không mang tính quy luật nên rất khó cho việc nghiên cứu chu kỳ
nhiều năm. Mực nước trung bình là yếu tố có tính ổn định cao, ít bị ảnh hưởng của
những hiện tượng khí hậu bất thường. Vì vậy để nghiên cứu chu kỳ nhiều năm người
ta thường nghiên cứu sự biến đổi mực nước biển trung bình.
- 2 -
3. Ở Việt Nam có 3 trạm hải văn có số liệu nhiều năm là Hòn Dấu (Hải Phòng), Sơn
Trà (Đà Nẵng), và Vũng Tàu (Bà Rịa – Vũng Tàu)
Thủy triều ở Hòn Dấu có chế độ nhật triều ngày lên xuống một lần có biên độ
lớn (4,0 – 4,5m) và có thời gian quan trắc dài (từ 1961 đến 2006). Thủy triều ở Sơn
Trà có chế độ bán nhật triều ngày lên xuống hai lần có biên độ nhỏ (1,0 đến 2,0m).
Thủy triều ở Vũng Tàu có chế độ bán nhật triều ngày lên xuống hai lần có biên độ
lớn (4,0 – 4,5 m), tài liệu thu thập được từ 1982 đến 2007.
Trong nghiên cứu này chúng tui đã sử dụng tài liệu của trạm Hòn Dấu là trạm
có tài liệu quan trắc dài năm và Vũng Tàu là trạm ở gần ĐBSCL
4. Trong 46 năm (từ 1961 đến 2006), nếu bỏ qua 4 năm (1961 đến 1964) nghi ngờ
có sai số thì mực nước trung bình năm cao nhất của trạm Hòn Dấu là 204cm (năm
1984) và thấp nhất là 183 (năm 1965) (cao độ Hải đồ)
Trong 25 năm (1982 - 2007) mực nước trung bình năm cao nhất của trạm
Vũng Tàu là -18cm năm 1996 và thấp nhất là -36cm năm 1982 (cao độ Quốc gia).
Biến trình mực nước trung bình nhiều năm ở Vũng Tàu và Hòn Dấu tuy thay đổi
nhưng vẫn có tính chu kỳ, tuy vậy việc xác định chính xác rất khó khăn. Biến trình
mực nước bình quân 5 năm liên tục ở Hòn Dấu và Vũng Tàu có chu kỳ khoảng 18 –
20 năm. Kiểm tra lại với biến trình mực nước bình quân liên tục 10 năm ở Hòn Dấu
cũng cho thấy tính chu kỳ nhiều năm của thủy triều là khoảng 18 – 20 năm (riêng ở
Vũng Tàu tài liệu quá ngắn nên không thể hiện rõ )
5. Biến trình mực nước trung bình 18 năm:
a) Biến trình mực nước trung bình 18 năm của Hòn Dấu và Vũng Tàu đều cho thấy
sự gia tăng mực nước biển.
- Ở Hòn Dấu trong vòng 40 năm, mực nước biển trung bình 18 năm sau
(1984 – 2001 ) cao hơn mực nước biển trung bình 18 năm trước (1964 – 1981) là
58,5 mm. Tính ra độ gia tăng trung bình của nước biển ở Hòn Dấu là khoảng 3,0
mm/năm. Dùng quan hệ namH 18 ~ T thì trung bình mỗi năm gia tăng 1,7 mm
- Ở Vũng Tàu trong vòng 25 năm (1982 đến 2007) mực nước biển trung bình
18 năm (1990 – 2007) cao hơn mực nước biển trung bình 18 năm (1982 – 1999) là
34,4 mm. Tính trung bình mỗi năm gia tăng 5mm. Dùng quan hệ namH 18 ~ T thì
trung bình mỗi năm gia tăng 4,7 mm
b) Biến trình mực nước lớn nhất trung bình nhiều năm cũng cho thấy sự gia tăng rõ
rệt
- Ở Hòn Dấu mực nước lớn nhất trung bình trong 18 năm (1989 - 2006) cao
hơn mực nước trung bình lớn nhất 18 năm (1962 – 1982) là 120 mm, trung bình mỗi
năm gia tăng 5mm. Mực nước lướn nhất theo quan hệ namH 18 ~ T tăng trung bình
3,4 mm mỗi năm.
- Ở Vũng Tàu mực nước lớn nhất trung bình 18 năm (1990 – 2007) cao hơn
mực nước lớn nhất trung bình 18 năm (1982 – 1999) là 46,7 mm, trung bình mỗi
năm gia tăng 5,8 mm . Dùng quan hệ namH 18max ~ T thì mực nước lớn nhất trung bình
- 3 -
18 năm (1990 – 2007) cao hơn mực nước lớn nhất trung bình 18 năm (1982 – 1999)
là 6,2 mm mỗi năm.
c) Biến trình mực nước thấp nhất ở cả Hòn Dấu và Vũng Tàu đều chưa phát hiện
thấy sự gia tăng.
d) Qua nghiên cứu cho thấy, mực nước biển trung bình nhiều năm ở Vũng Tàu mỗi
năm gia tăng 4,7 mm. Sự gia tăng này lớn hơn hẳn sự gia tăng mực nước biển nhiều
năm ở Hòn Dấu. Phải chăng là do số liệu mực nước ở Vũng Tàu quá ngắn nên kết
quả còn chưa cính xác.
Qua nghiên cứu cho thấy sự gia tăng:
Mực nước biển chủ yếu là do sự gia tăng mực nước đỉnh triều. Theo quan hệ
namH 18max ~ T thì mỗi năm ở Hòn Dấu tăng khoảng 3,4 mm mỗi năm và ở Vũng Tàu
tăng khoảng 6,2 mm mỗi năm. Đây là một nhân tố gây ngập lụt ở những vùng thấp
trũng ở ĐBSCL
- 4 -
HÌNH 1 - BIẾN TRÌNH MỰC NƯỚC TRUNG BÌNH 5 NĂM TẠI HÒN DẤU VÀ VŨNG TÀU
1800
1820
1840
1860
1880
1900
1920
1940
1960
1980
1965 1970 1975 1980 1985 1990 1995 2000
Năm
H
(m
m
)
-340
-320
-300
-280
-260
-240
-220
-200
H HD H VT
HÌNH 2- BIẾN TRÌNH MỰC NƯỚC TRUNG BÌNH 10 NĂM TẠI HÒN DẤU VÀ VŨNG TÀU
1850
1860
1870
1880
1890
1900
1910
1920
1930
1940
1950
1965 1975 1985 1995
Năm
H
(m
m
)
-340
-320
-300
-280
-260
-240
-220
-200
H HD H VT
- 5 -
Hình 3: Quan hệ Htbmax18 ~ T tại Hòn Dấu
H = 8,7349Ln(T) + 372,48
R2 = 0,8612
H = 3,4122T + 371,61
R2 = 0,8598
372,00
374,00
376,00
378,00
380,00
382,00
384,00
386,00
388,00
1,0 1,1 1,2 1,3 1,4 1,5 1,6 1,7 1,8 1,9 2,0 2,1 2,2 2,3 2,4 2,5 2,6 2,7 2,8 2,9 3,0 3,1 3,2 3,3 3,4 3,5 3,6 3,7 3,8 3,9 4,0 4,1
T (thời gian)
H(cm)
Hmax18 (cm)
Log. (Hmax18 (cm))
Linear (Hmax18 (cm))
- 6 -
Hình 4: Quan hệ Htb18 ~ T tại Hòn D

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status