Tiểu luận Diễn biến đàm phán ngay trước và sau Hội nghị Cancun - pdf 13

Download Tiểu luận Diễn biến đàm phán ngay trước và sau Hội nghị Cancun miễn phí



Kể từ sau thất bại tại Hội nghị Cancun đến nay, trên cơ sở Tuyên bố Cancun, Đại hội đồng và Tổng giám đốc WTO đã tiến hành một số cuộc tham vấn từ đầu tháng 10/2003 với mục đích là: xem xét mức độ linh hoạt và khả năng đồng thuận chung trong từng lĩnh vực đàm phán; và tìm cách đẩy mạnh tiến trình đàm phán. Tại các cuộc tham vấn và các cuộc họp Bộ trưởng ngoài phạm vi WTO khác, tất cả các thành viên WTO đều tái khẳng định quyết tâm lấy lại và hoàn thành Vòng đàm phán đúng thời hạn đã định, trước 1/1/2005. Các cuộc tham vấn và các cuộc họp này đã cho thấy quan điểm giữa các nước phát triển và đang phát triển vẫn còn rất khác biệt.
Ngoài sự khác biệt về quan điểm giữa các nước phát triển và đang phát triển, nguyên nhân chủ yếu làm cho tiến trình đàm phán Doha không có bước chuyển biến rõ rệt là thái độ "xem ai cần ai hơn" của các nước phát triển. Tuy nhiên, dưới hình thức này hay hình thức khác, cuối cùng các nước phát triển, cụ thể là EU và Mỹ đã phải chủ động hơn ai hết trong việc lấy lại đàm phán. Điều này được thể hiện rất rõ thông qua các nỗ lực ngoại giao gần đây của cả ông Lamy và ông Joellick nhằm “vận động lấy lại đàm phán Dôha và thăm dò phản ứng của các đối tác chính đối với quan điểm của họ". Các quan điểm và đề xuất chính hiện nay của EU và Mỹ trong các lĩnh vực đàm phán Doha chưa được rõ ràng và thực sự hấp dẫn đối với các nước đang phát triển, cụ thể như sau:
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-36418/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

oát khỏi nghĩa vụ xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu và siết chặt quy định về tín dụng xuất khẩu, (ii) đưa ra công thức "pha trộn" cho việc cắt giảm thuế, theo đó các dòng thuế cao của họ sẽ không bị cắt giảm nhiều, trong khi các thành viên đang phát triển sẽ phải cắt giảm với diện rộng hơn và mức độ sâu hơn, (iii) không dành S&D đáng kể cho các thành viên đang phát triển. Bản đề xuất đã đặt ra tình thế bất lợi và đi ngược lại lợi ích của các nước đang phát triển.
Trước bối cảnh đó, các nước xuất khẩu nông sản đang phát triển đã tỏ ra phẫn nộ và liên kết lại thành Nhóm G-20. Ngày 20/8/2003, nhóm này đã đưa ra đề xuất riêng của mình, nhằm đáp lại bản đề xuất chung của Mỹ và EU, với những nội dung chính là:(i) các nước giàu phải cam kết cắt giảm đáng kể tất cả các hình thức trợ cấp trong nước, và xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu nếu áp dụng công thức cắt giảm "pha trộn", (ii) dành S&D cho các thành viên đang phát triển, với các cam kết cắt giảm thuế quan ít hơn, và (iii) đưa ra khái niệm "các sản phẩm đặc biệt" và "cơ chế tự vệ đặc biệt (SSM)" đối với sự gia tăng nhập khẩu đột ngột.
Trong thư gửi ông Derbez ngày 31/8/2003, ông Castillo và ông Supachai đã kỳ vọng tại Can cun sẽ đạt được thống nhất về "khuôn khổ chung" cho đàm phán nông nghiệp và chỉ đạo các bước tiếp theo để thiết lập "cách đàm phán". Dự thảo Tuyên bố Cancun ngày 24/8/2003 gửi kèm theo thư này được xem là cơ sở cho Hội nghị Can cun xem xét đã nghiêng về bản đề xuất chung của Mỹ và EU và lạnh nhạt với những quan tâm cũng như lợi ích của các nước đang phát triển.
Tại Cancun, các thành viên phát triển và đang phát triển ( thay mặt là Nhóm G-20) đều thể hiện quan điểm bảo lưu các đề xuất nêu trên của mình và kiên quyết không nhân nhượng nhau nên hội nghị đã không thông qua Bản Dự thảo Tuyên bố Cancun ngày 13/9/2003 (được gọi là Dự thảo Derbez). Theo phân tích của Mạng Third World Network (TWN), nội dung của Dự thảo Derbez về cơ bản là tương tự Dự thảo ngày 24/8/2003. Nếu dự thảo này được thông qua tại Cancun, thì cơ nghiệp của nông dân và vấn đề an ninh lương thực tại các nước đang phát triển có thể bị đe doạ từ việc nhập khẩu lương thực giá rẻ của nước ngoài. Nó cho phép các nước phát triển có thể tiếp tục duy trì hay thậm chí gia tăng bảo hộ nông nghiệp thông qua những linh hoạt đáng kể trong hỗ trợ trong nước (chuyển từ hình thức hỗ trợ này sang hình thức hỗ trợ khác), trong tiếp cận thị trường (áp dụng công thức cắt giảm thuế "Pha trộn") và trong cạnh tranh xuất khẩu (không có thời hạn xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp trong hệ thống tín dụng xuất khẩu). Trong khi đó, các nước đang và chậm phát triển không được dành S&D và những linh hoạt cần thiết trong quá trình tiếp tục cải cách nông nghiệp.
NAMA:
Quá trình tự do hoá thông qua Hiệp định GATT từ năm - 1948 đã hạ thấp đáng kể rào cản đối với thương mại hàng công nghiệp trên thế giới. Hiện tại mức thuế quan nhập khẩu hàng công nghiệp bình quân tại các nước phát triển là dưới 5% và tại các nước đang và chậm phát triển dưới 15%. Không giống như hàng nông sản, với những lợi thế so sánh rõ rệt và nền thuế quan thấp, một lần nữa tại Vòng Doha, các quốc gia phát triển muốn nhanh chóng phá vỡ thế bảo hộ hàng công nghiệp trên thị trường thế giới.
Tháng 8/2003, Mỹ, Canada và EU đã đưa ra Bản đề xuất chung về cách đàm phán NAMA. Bản đề xuất này đã thể hiện tham vọng của các nước phát triển muốn ép các nước đang phát triển phải cắt giảm nhanh và mạnh thuế quan hàng công nghiệp nhưng lại không làm rõ nhiệm vụ "tính đến nhu cầu đặc biệt và lợi ích của các nước này, trong đó có nguyên tắc có đi có lại không tương xứng" trong Tuyên bố Doha. Các nước đang phát triển muốn đàm phán một "công thức cắt giảm linh hoạt hơn" và tham gia "cắt giảm thuế theo ngành trên cơ sở tự nguyện".
Theo phân tích của TWN, bản đề xuất chung đã từng bị các nước đang phát triển phản đối trong suốt quá trình đàm phán tại Geneva vì nó làm giảm đáng kể mức độ linh hoạt trong hoạch định chính sách phát triển công nghiệp và đe doạ đến sự tồn tại, việc làm của ngành công nghiệp ở các nước này. Tuy nhiên, nội dung cơ bản của nó vẫn được đưa vào trong Dự thảo ngày 24/8/2003 để các Bộ trưởng xem xét tại Cancun, đó là: (i) đưa ra công thức cắt giảm thuế "phi tuyến tính" buộc các nước đang phát triển phải cắt giảm các dòng thuế đang được bảo hộ với thuế suất cao; (ii) tăng diện ràng buộc thuế quan ở mức tối thiểu là 95% đối với các nước đang phát triển để đưa vào quy định cắt giảm; (iii) tất cả các thành viên tham gia "cắt giảm thuế theo ngành" trên cơ sở bắt buộc, giảm thuế suất xuống 0 theo lộ trình cắt giảm nhanh.
Thư gửi ông Derbez ngày 31/8/2003 đã kỳ vọng là 2 điểm còn nhiều bất đồng nhất trong đàm phán NAMA là "công thức cắt giảm thuế" và "cắt giảm thuế theo ngành" sẽ được thu hẹp để đi đến thống nhất về "khuôn khổ chung", tiến tới thiết lập "cách đàm phán". Tuy nhiên, do tại Cancun không đạt được tiến triển gì đáng kể nên hầu hết nội dung của Dự thảo Derbez trùng với dự thảo ngày 24/8/2003, nghĩa là với đề xuất của Mỹ, Canada và EU trước đây và chỉ khác nhau về cách diễn đạt ý trong phần nội dung cắt giảm thuế theo ngành.
Các vấn đề Singapore:
Các vấn đề Singapore là đầu tư, cạnh tranh, minh bạch hoá mua sắm chính phủ và thuận lợi hoá thương mại đã được các nước giàu đưa ra từ Hội nghị Singapore năm 1996. Do gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ các nước cùng kiệt nên tại hội nghị này không có bất kỳ thoả thuận nào liên quan đến việc phát động đàm phán. Đàm phán về các vấn đề Singapore đã tạm thời lắng xuống kể từ đó đến Hội nghị Doha. Tại Doha, tiếp tục theo đuổi ý đồ phát động đàm phán, các nước phát triển, đặc biệt là EU và Nhật Bản đã thành công khi đưa vào Tuyên bố Doha cam kết: “đàm phán về các vấn đề Singapore sẽ được bắt đầu từ sau Hội nghị Cancun nếu các thành viên có được sự nhất trí rõ ràng về các cách đàm phán".
Như đã đề cập, cùng với vấn đề thương mại - môi trường, đàm phán về các vấn đề Singapore được xem là nhân tố mới của Vòng Doha. Trong bối cảnh đàm phán Doha trong các lĩnh vực khác chưa có bước tiến triển rõ rệt, thì việc thúc đẩy đàm phán các vấn đề mới chắc chắn gặp khó khăn. Ngay trước Hội nghị Cancun, các nước đang phát triển cho rằng "làm rõ" các yếu tố như nêu trong Tuyên bố Doha là "điều kiện cần" để phát động đàm phán. Trong khi đó, các nước phát triển và một số nước đang phát triển ở trình độ cao tỏ ra áp đặt khi khẳng định là cần phát động đàm phán sau Hội nghị Cancun trên cơ sở các đề xuất về cách đàm phán của họ. Các tổ chức xã hội trên thế giới cũng đã lên tiếng phản đối việc phát động đàm phán các vấn đề này trong WTO vì theo họ ít nhất 3 trong 4 vấn đề trên là các vấn đề phi thương mại và việc thiết lập các khuôn khổ đa phương mới sẽ chỉ có lợi cho các công ty đa quốc gia...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status